Kinh thành Thăng Long, tiết Lập Thu năm Ất Mão (1075). Canh tư tĩnh mịch, mảnh trăng hạ tuần chênh chếch soi nghiêng. Dinh quan Phụ chính Đôn quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đang chìm trong tĩnh mịch chợt thoáng xao động vì ngoài cổng có nhóm người đến xin yết kiến Thượng phụ công. Họ trao cho lính canh bảy chiếc lệnh bài, trên có khắc chìm chòm sao Đại Hùng như cái đấu đang múc nước đong bầu trời lồng lộng. Viên gia tướng thân tín của Lý Thái úy sải bước ra cổng đưa nhóm bảy người nọ vào, thư phòng giờ ấy vẫn đỏ đèn: Đôn quốc Thái úy đang nóng lòng đợi họ. Thất Tinh Đội, nhóm thám mã đặc biệt được Thái úy phái sang phương Bắc thám thính tình hình Đại Tống đã mang tin về…
Triều Tống hiện thời suy nhược, nội các lung lay, hai đảng tân cựu tranh giành lợi lộc. Vương An Thạch lần thứ hai trở lại nắm quyền tể tướng liền phái binh tiến lên phía Bắc đánh Tây Hạ, ý đồ muốn lấy chiến công oanh liệt để khôi phục uy tín thiên triều, nhưng rốt cuộc lại làm tiêu hao hơn 60 vạn quân và mất không biết bao nhiêu tiền của, Tống Thần tôn phải ôm mặt khóc bỏ ăn mấy ngày. Nước Liêu thừa cơ Trung Hoa bị tổn thất nặng đòi cắt thêm đất, Vương tể tướng cắn răng chịu khuất, cắt cho Liêu 700 dặm ở Hà Đông, khiến phong trào phản đối nổi lên càng thêm gay gắt.
Thất thế ở phương Bắc nên vua tôi nhà Tống quay xuống phương Nam toan thôn tính Đại Việt để gỡ lại phần nào thanh thế. Vương An Thạch một mặt xúi giục Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương Đại Việt, một mặt âm thầm tập trung binh mã ở Ung châu thuộc Quảng Tây và đóng thuyền bè tập thủy chiến ở Khâm châu, Liêm châu thuộc Quảng Đông; lại ra nghiêm lệnh cấm bách tính giao thương với Đại Việt.
Thất Tinh Đội sau khi báo cáo quân tình, lại trình lên các họa đồ hải doanh lục trại của giặc Tống. Lý Thường Kiệt gật gù hài lòng, Vương tể tướng phương bắc kia dẫu hùng tài đại lược cách mấy thì những nước cờ của y không ra ngoài tiên liệu của Lý thái úy nước Nam. Sau khi vỗ về ủy lạo đội thám mã đắc lực và cho họ lui ra nghỉ ngơi, Lý Thường Kiệt chăm chú nghiên cứu họa đồ, viên gia tướng mấy lần vào thay bạch lạp, thấy ngài vẫn ngồi trầm ngâm bên án thư, chiếc bóng lung linh sừng sững soi bên vách. Rạng sáng tinh sương, quan Thái úy thanh thản vào triều chầu ấu chúa Nhân tôn, cùng các đại thần thương nghị đại kế chống ngoại xâm.
* * *
Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc. Tiết Sương Giáng năm ấy, trong khi Vương An Thạch còn mơ màng huyễn tưởng rằng Lý triều “quân không còn một vạn” thì 10 vạn hùng binh Đại Việt làm lễ thệ sư chia làm hai ngả đông tây để Bắc phạt tiên phát chế nhân. Bốn vạn thủy quân do đích thân Đại tướng quân, Đại tư đồ, Thượng phụ công Lý Thường Kiệt đích thân thống lãnh, từ châu Vĩnh An giong buồm thẳng lái tiến đánh Khâm châu, Liêm châu. Sáu vạn lục quân do phó tướng Tôn Đản chỉ huy, từ châu Quảng Nguyên trỏ mũi giáo lăm lăm về hướng Ung châu.
Nhà Tống hoàn toàn bất ngờ trước cuộc tiến quân táo bạo và thần tốc của nhà Lý; hẳn là đến cả trong mơ, vua tôi thiên triều cũng không bao giờ lại nghĩ được rằng có ngày Nam quân nhập Hoa! Thế quân ta đi như gió lốc cuồn cuộn tuôn vào nhà trống. Tống binh vốn đã tiêu tan nhuệ khí sau trận chiến Tây Hạ, lại thêm toàn quân ô hợp, đã thế nhà Tống có lệ trả lương cho quân lính nên những người già yếu vẫn cố phục dịch trong quân; nay quân Nam tráng khí bừng bừng, ai nấy bấy lâu mài nanh giũa vuốt mong một lần ra oai lập công cho xã tắc, đến ngựa voi kia còn mừng hý dậy rống vang lúc nhai cỏ trên đất Tống, thì đàn dê non mới tụ tập ở ba châu vùng Lưỡng Quảng làm sao chống nổi mảnh hổ đang quyết vồ mồi.
Thất Tinh Đội cũng được chia ra để làm hướng đạo, bốn chàng ruỗi ngựa tiên phong cho cánh lục quân, ba người ngồi khoái thuyền phăng phăng cưỡi sóng biển Đông dẫn đầu hải hạm. Lời hịch Phạt Tống lộ bố văn do Lý Thái úy thảo ra được tuyên dán khắp dọc đường hành quân của đoàn binh Bắc phạt:
Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép thanh miêu, trợ dịch, khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo mập.
Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!
Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu hưởng tháng Thuấn thăng bình!
Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!
Một chuyến ra quân uy danh đại thịnh, hơn bốn mươi ngày đêm quét tro chẻ trúc đã đập tan cả ba sào huyệt giặc. Đại công cáo thành, Lý Đại tướng quân cho lệnh thu binh. Quân ta đã rút về nước mà Tống triều vẫn còn bàng hoàng tưởng trong cơn ác mộng!
Phán đoán thiên triều sau trận thua đau choáng váng nhất định sẽ hưng binh phục hận nhằm gở thể diện đại bang và thực hiện mộng xâm lăng bờ cõi phương nam, Lý Thái úy cho quân binh tiếp tục rèn tập để chuẩn bị nghênh tiếp. Thất Tinh Đội lại được cử vào đất Tống để theo dõi cụ thể công việc chuẩn bị và kế hoạch xâm lược của quân Tống. Lý Thường Kiệt tự mình tuần tra biên cương, đôn đốc tăng cường lực lượng bố phòng khắp các châu huyện thuộc vùng núi phía bắc.
Tiết Đông Chí năm Bính Thìn (1076), Thất Tinh Đội trở về cho hay: Vương An Thạch sai Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, mang quân hơn 10 vạn, dân phu 20 vạn, chuẩn bị chia làm nhiều ngả để tràn xuống Nam bang.
Quả nhiên đầu năm Đinh Tỵ (1077), quân Tống ùa sang, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra vòng sang phía đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu và thẳng tới sông Như Nguyệt.
Lý Thường Kiệt sai đắp đê cao như bức thành, lại đóng tre làm giậu, dày đến mấy tầng. Thành đất lũy tre nối với dãy núi Tam Đảo đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Đại Việt. Thành hào ấy dài hơn trăm dặm, giặc khó vượt qua nhưng ta lại dễ phòng thủ. Một vạn kỵ binh thiện chiến vốn là quân chủ lực của Tống va nhằm thành hào ở vùng đầm lầy hóa ra vô dụng, không phát huy được sở trường. Thế quân thiên triều những tưởng có thể ào ạt băng băng nào ngờ bị va vào lưới bẫy bũa giăng trùng điệp.
Đang khi quân giặc tiến thoái lưỡng nan thì vào đêm rằm, lúc canh ba trăng lên vằng vặc, trong đền danh tướng Trương Hát của Đại Việt ở bến đò Như Nguyệt bỗng có tiếng thần nhân ngâm thơ vang lên lồng lộng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Ba đêm liền đều như thế, giọng ngâm thơ nghe rõ là khẩu âm vùng Lưỡng Quảng, cứ rền vang theo sóng nước loang xa cả một vùng. Tống binh nghe tiếng ngâm thơ thảy đều rùng mình mọc ốc, bủn rủn tay chân mất cả tinh thần, đang đêm đào ngũ tính ra hàng vạn. Phía quân Đại Việt thì nghe tiếng ngâm, biết được uy linh thần nhân ủng hộ nên nhuệ khí thêm tăng, vai cung tay giáo thêm căng, giết giặc không sờn.
Thái úy Đại Việt biết thế giặc đã tàn, bèn cho người nghị hòa, Quách Quỳ được mở lối thoái quân, mừng rỡ như kẻ chết đuối vớ được phao, vội vã nhận lời lập tức lui quân. Quân dân Đại Việt được một dịp hả hê: 10 vạn hùng binh phương bắc hùng hổ tràn sang hóa ra là để bàn việc hòa hiếu với Đại Việt, đúng là sự hài hước ngàn năm có một!
Thương thay, trời đã sinh Vương An Thạch sao còn sinh thêm Lý Thường Kiệt! Tháng 10 năm ấy, vị danh nhân Đại Tống bị bãi chức, lui về quê cũ Giang Ninh trồng cây làm vườn.
Giặc tan nước vững, xã tắc thăng bình, ngày đại điển khánh hạ luận công hành thưởng, Đại tư đồ kiểm quân thấy vắng bóng đội Thất Tinh: bảy chàng trai đã giao trả lệnh bài khắc chìm chòm sao đong trời, trở về đồng ruộng để vui cảnh cổ cày vai bừa với thứ dân Đại Việt. Chẳng ai biết họ đã về đâu lập nghiệp trong cõi trời Nam, lại càng không ai biết, họ vốn gốc người Lưỡng Quảng, tổ tiên lánh nạn phải lần sang phương Nam tìm đậu đất lành, nặng mang ân đức thủy thổ Đại Việt cao dày dung dưỡng nên đã tựu nghĩa phò Nam, dốc lòng phạt Bắc…
* * *
Một ngày trước tiết Mang Chủng Đoan Ngọ năm Tân Mão đầu thế kỷ 21, có một người Việt kia vốn gốc Quảng Đông tình cờ nghe được tiếng loa của vị tiến sĩ gốc Đại Việt nọ, dưng không gã bậm môi, nước mắt lưng tròng, thèm biết mấy được nghe lại tiếng loa trên bờ nam sông Như Nguyệt và gặp lại đội Thất Tinh tiền bối thuở xưa!
http://www.youtube.com/watch?v=FJwZ-uaxoZs&feature=player_embedded
Hào khí trời Nam
2011/06/06 bởi levinhhuy
Bài này Ly viết hay, cứ tưởng là trích ở ngoại sử nào…
Việt Nam có thể chọn được nhiều bạn, rất nhiều bạn, nhưng đáng tiếc là không có quyền chọn…láng giềng.
Anh Dân Choa yêu quý ơi! Em cứ băn khoăn tự hỏi hoài: chả biết tại sao các bác cầm quyền phụ chính xứ mình cứ oang oang “Việt Nam mong làm bạn với thế giới” mà thế giới lại chẳng có ma nào muốn đánh bạn với mình, cái bọn thế giới ấy sao mà chúng nó đểu thế, huhuhu! Còn người láng giềng tình thương mến thương 16 chữ vàng mới thật là khéo, vì anh ấy… chọn chúng ta, thương anh ta quá, hahaha!
Anh Dân Choa yêu quý ơi
——-
Ui chời dạt dào tình củm hè!
Em tin rằng ai đã từng vào Quê Choa thì đều muốn được gọi anh Dân Choa như vậy, kể cả cô giáo Hà Linh đấy nhớ, hihi!
Cô chỉ dám gọi là anh Danchoa kính mến thôi trò ạ.
Hihi, Ly đã nói là ai cũng muốn được gọi thế kia mờ, còn ngoài miệng thì cô gọi sao thì gọi vậy, thưa cô kính mến! 😛
khiếp, trò bắt bẻ cô kinh thế!
😛
Hơ, hơ…
Nghe ông học, trò chuyện với cô, giáo giảng về gọi DC mà buồn cười quá.
Choa cũng chỉ là còm sĩ như mọi người ở quechoa thôi, làm sao cho dân dã và gần gũi là được, hehe.
Hì hì, thì em có thấy anh Dân Choa gần gũi thân tình lắm nên mới nói thế mờ!
anh Danchoa sung sướng chưa nờ!
Ngộ hen cô, chỗ cô trò mình thảo luận mà có người cười hơn hớn tươi ghê hì! 😀
hihihi vui hầy!
Cười kiểu khác đi, cô cười hi hi coi chừng bị rầy đấy, hì hì!
Đọc bài mà cảm thấy hừng hực như mình đang sống trong cảnh thực!
Không hiểu sao chính quyền nay không học tập những tích xưa để chống giặc, giữ nước nhỉ?
Anh Mô! Bài viết này xem như một bổ túc nhỏ về giai thoại bốn câu thơ thần, do một người thầy Đài Loan chỉ cho em.
Năm 1974, xảy ra cuộc hải chiến Hoàng Sa. Khi đó em mới 10 tuổi, nhớ là lúc đó xem trên tivi, nỗi căm phẫn cứ hừng hực. Em học trường Tàu, phần lớn thầy cô là người Đài Loan, có ông thầy họ Thẩm dạy Sử. Hôm ấy thầy Thẩm bỗng nổi hứng nói về trận chiến giữa Việt Nam Cộng Hòa với Trung Cộng ở Hoàng Sa. Lan man thế nào mà thầy bỗng nhắc đến Lý Thường Kiệt và “Nam quốc sơn hà”… Nhắc lại, đó là năm 1974, chưa có Internet để tra Google, và thầy là người Đài Loan, không biết tiếng Việt. Bây giờ đã là năm 2011, em gúc nguyên bản chữ Hán bài thơ thì mới biết toàn bộ tài liệu của Trung Cộng về Lý Thường Kiệt đều không hề nhắc đến bài thơ này; em thắc mắc mãi: không hiểu sao mà thầy Thẩm thuộc được bài thơ đó?
Và thầy đã đố chúng em: ai đã đọc lên bài thơ đó lúc nửa đêm trên bến sông Như Nguyệt? Trả lời: Quân của Lý Thái úy đọc. Lại hỏi: Nhưng người lính đó gốc Việt hay gốc Tàu? Trả lời: Việt.
Thầy cười bảo rằng nếu người Việt đọc thì chỉ có thể đọc bằng âm Hán Việt, hoặc giỏi lắm là đọc bằng tiếng phổ thông, thế nhưng lính Tống thời đó có ai học hành gì đâu mà biết tiếng phổ thông, nghe làm sao mà hiểu được để mà phải sợ hãi; cho nên người đọc đó nhất định phải là người Tàu, và phải là dân gốc Lưỡng Quảng (vì quân được Vương An Thạch huy động đều là người Quảng Đông và Quảng Tây) thì giọng ngâm đó quân Tống mới nghe hiểu được.
Bọn em hỏi thầy: Vậy thì chả lẽ người đọc đó là Hán gian?
Thầy bảo: Như các em bây giờ, đều là người gốc Hán nhưng lại mấy đời cư ngụ Việt Nam; giả sử các em đều đến tuổi cầm súng và có thể tham dự trận Hoàng Sa hải chiến thì các em sẽ cầm súng cho ai?
Cả lớp đáp ngay không chút ngần ngừ: Việt Nam!
Thầy gật đầu: Đúng! Làm người thì phải biết khi mình uống nước sông nào thì đó là Tổ Quốc mà mình phải bảo vệ!
Bài học nhỏ của một ông thầy người Tàu dạy đám học sinh tiểu học người Tàu làm em nhớ mãi đến nay; vậy mà nay em lại được thấy có ông thầy người Việt cầm loa ngăn chận sinh viên người Việt biểu thị lòng yêu nước của mình, em thiệt hết biết nói gì luôn, anh Mô ạ!
Thầy gật đầu: Đúng! Làm người thì phải biết khi mình uống nước sông nào thì đó là Tổ Quốc mà mình phải bảo vệ
——-
Câu chuyện của anh Ly nên đưa ra làm một entry riêng đi anh Ly ạ, rất hay!
Hì hì, cứ để vầy cũng được rồi cô ui, cái còm này chỉ là xuất xứ của entry thôi mờ! 😀
Ly có một người thầy quả là đáng kính! Lại càng đáng kính hơn khi ông không phải là người Việt mà là người Đài Loan. Học trò của thầy cũng đáng được tôn trọng, khi không phải là người Việt gốc nhưng lại có tình yêu nồng nàn đối với nơi đã nuôi dưỡng mình!
Hihi, anh Mô phân biệt em rồi, “không phải người Việt gốc” là sao cà? Cô Hà Linh vẫn hay khen em là người rất Việt đấy nhớ! 😀
phải nói là Việt hơn cả một số Việt từ 4000 năm anh Ly ạ.
HL bao giờ cũng nghĩ anh Ly là Việt 100%, chỉ có khi tự nhiên anh Ly hay ai đó nêu ra cái chữ gốc thì mới khẳng định lại thế thôi. Mà thật ra cứ khẳng định gốc này gốc kia thì HL nghĩ cũng vô lý, cái gốc chỉ nói lên cái nguồn gien hay chi chi đó thôi, ứng xử, quan điểm sống mới là quan trọng, Việt hay không Việt cũng đều cần có tự trọng, ứng xử văn minh, tình nhân ái…mà anh Ly lại có những cái đó, thế nên HL nghĩ không phân biệt chi hết, anh Ly bạn tui-người Việt Nam.
Hi, là em chọc tức anh Mô để kiếm thêm cái còm của ổng mờ, chứ cô giáo đã tự hào là người Việt Nam thì Ly làm sao khác được hè!
Ông thầy của Ly quả thực là người từng trải…
Ở đây mình thấy có 2 vấn đề mà ông Thầy đã tách bạch ra cho học trò, thế hệ sau. Thứ nhất là ông dạy học sinh biết về lịch sử, nguồn gốc, truyền thống, phong tục tập quán và có thể cả ngôn ngữ nữa, vì ông là người Việt gốc Hoa.
Điều thứ hai là ông đã giảng giải cho học trò, công dân nước Việt, về trách nhiệm nghĩa vụ công dân rất rạch ròi. Mình sinh ra ở đâu, sống ở đâu, công dân của nước nào thì có trách nhiệm ở nước đó.
Nhận thức này không phải ai cũng thấy rõ đâu.
( đang viết mà nó nhảy chữ ghê quá, tạm dừng, hehe)
Anh Dân Choa làm em thấy nhớ thầy cũ quá chừng! Tiếc là sau 30/4/75 tới giờ, em không còn được tin tức gì của thầy nữa, thầy là người Taiwan, anh Dân Choa ạ!
Kính lão đệ một ly !
Chưa biết lão huynh mời là trà hay rượu nhưng vẫn cứ uống cạn thôi, khà, sảng khoái sảng khoái, ha ha!
“Dưng không gã bậm môi, nước mắt lưng tròng, thèm biết mấy được nghe lại tiếng loa trên bờ nam sông Như Nguyệt …”
Nhiều người giống gã lắm bác Lý ạ.
… Khốn thay đấy lại đều là những người thấp cổ bé miệng bác Cua ơi, đành chỉ mình với ta với nhau thôi!
có một người Việt kia vốn gốc Quảng Đông tình cờ nghe được tiếng loa của vị tiến sĩ gốc Đại Việt nọ, dưng không gã bậm môi, nước mắt lưng tròng, thèm biết mấy được nghe lại tiếng loa trên bờ nam sông Như Nguyệt và gặp lại đội Thất Tinh tiền bối thuở xưa!
———————-
Giọt nước mắt của gã ….
Nhìn các bạn sinh viên mình hôm 5/6 mà không muốn khóc mới là chuyện lạ, cô giáo ơi!
Hôm đó tôi có việc đi qua cửa dinh Thống nhất đúng lúc đoàn biểu tình đi ngang qua. Tự nhiên có một cảm giác rất lạ, như muốn vỡ tung ra bác ạ.
Em cảm nhận được cái “cảm giác” rất lạ ấy của bác, bác Cua!
cũng may lần này, CP mình không có những phản ứng vô lý như trước!
Cũng may lần này không có Ly tham gia biểu tình, híc, tật Ly nóng nảy, dễ sinh sự, e sẽ bị các bạn mình đuổi về sớm vì tội càn quấy, hơ hơ!
nhưng ” con giun xéo lắm cũng quằn ” anh Ly à, những người ở trển cũng đã biết không thể bò bằng đầu gối mãi rồi!
Em mong sao các bác ở trển tìm ra đối sách tối ưu để giữ nguyên lãnh thổ, giữ vẹn quốc thể và nhất là giữ trọn lòng dân lắm cô ơi!
nhưng qua ngày 12/6 vừa rồi thì thấy là …đường xa vạn dặm hầy!
Uất nghẹn, cô giáo ơi!
Cụ Lý thường Kiệt chỉ là một thái giám công công phục vụ riêng trong cung cấm mà đã ra trận giúp nước vang danh đời đời. Nghĩ lại các bác cao hiện giờ có cái đó mà sao tệ quá.
Bác Chổi à, sao lại đành lấy cái đó ra để cân đong anh hùng vậy hè, he he!
Để thấy là Họ Lý thời nào cũng đăm đắm khôn nguôi cho tình Non Nước, vận Quốc gia. Hơn Ba ngàn năm trước đó, và gần cả ngàn ngàn năm sau lịch sử vẫn lặp đi lặp lại chuyện Cõi bờ Dân tộc vì cái nhìn thiển cận của giới thống trị. May thay vẫn còn những tấm lòng Họ Lý để còn có thể khơi gợi cái niềm tự hào muôn thửa của Giống nòi.
Có ai thở dài không ta?
Khi nước ta đã tiến lên CNXH rồi thì các nước sẽ theo mình sái cổ, lúc đó sẽ chẳng còn phân biệt quốc gia nữa đâu, thế giới đại đồng, những người cộng sản sẽ là cánh hẩu với nhau, hê hê, khoái cha chả là khoái 😀
Chuyện Ly kể cứ như chuyện dã sử, công nhận Ly nhớ tài ghê, viết chuyện đâu ra đấy.
Hào khí hùng thiêng sông núi hơn lúc nào hết hễ có binh biến là bắt đầu toả sáng. Thời thế tạo anh hùng mà. Dân Nam đã có lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, lẽ nào chịu khuất phục trước bè lũ tham lam.
Dân Nam đã có lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, lẽ nào chịu khuất phục trước bè lũ tham lam.
________
Chị Hà Bắc chỉ mới nói có một vế là Lòng Dân, chị quên vế kia rồi sao: Ý Đảng?
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước ngẩng đầu mà đi.
Ý Đảng phải hợp với lòng dân thì mới bách chiến bách thắng mà. Hy vọng bài học lịch sử về truyền thống dựng nước và giữ nước sẽ mãi mãi được phát huy.
Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Mong rằng được vậy, chị Hà Bắc nhỉ!
Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
———-
Lãng mạn quá hầy!
Hihi, tinh thần lãng mạn cách mạng của đỉnh cao muôn trượng mừ, còn phải nói! 😀
” … Thầy bảo: Như các em bây giờ, đều là người gốc Hán nhưng lại mấy đời cư ngụ Việt Nam; giả sử các em đều đến tuổi cầm súng và có thể tham dự trận Hoàng Sa hải chiến thì các em sẽ cầm súng cho ai?
Cả lớp đáp ngay không chút ngần ngừ: Việt Nam!
Thầy gật đầu: Đúng! Làm người thì phải biết khi mình uống nước sông nào thì đó là Tổ Quốc mà mình phải bảo vệ!
Bài học nhỏ của một ông thầy người Tàu dạy đám học sinh tiểu học người Tàu làm em nhớ mãi đến nay; vậy mà nay em lại được thấy có ông thầy người Việt cầm loa ngăn chận sinh viên người Việt biểu thị lòng yêu nước của mình, em thiệt hết biết nói gì luôn, anh Mô ạ! ”
Trên tinh thần ” tiếu ngạo giang hồ ” – kính đệ một li ! ( Rượu bàu đá xứ TP@ và Ct@ đó nha – rượu miền tây hơi lạt, uống no chứ không say nhưng nếu có thì uống vẫn say vì :
say tình say nghĩa say nhân thế
Say nghĩa kim bằng ….ta cứ say ….
Hahahahahaha …………. ))
Hê hê, bác cứ chuốc em mãi thế cho đành ư!
Bác levinhhuy ơi,
Xin lỗi phải mượn cặp từ “bác”, “tôi” để xưng hô với bác, vì chỉ quen trên thế giới ảo nên không biết người kia già, trẻ hơn mình như thế nào.
Cám ơn bác đã đọc và comment trên bài viết của tôi hôm qua nhé. Bài này của bác cũng rất hay. Và như bác cũng đoán được, tôi vẫn thỉnh thoảng lén vào nhà bác để đọc đấy!
Hì, lâu nay em vẫn thầm thích thú với những cái còm của Ong Tu bên nhà bác Cua, hóa ra là bác. Em biết nhà bác đã hơn năm nay rồi, nhưng toàn chỉ dám hóng hớt, hôm qua thích bài ấy quá không kềm được, cảm ơn bác đã thương mà không trách tội đường đột, hihi!
Em kém bác khoảng 4, 5 tuổi đấy, xin hãy xem Ly như cậu em trai nhỏ, bác nhá!
Kính.
Bác Ly viết hay, em không biết còm thế nào cho phải phép.
À, hôm biểu tình có một người bạn của em bị lâm nạn (CA bắt) đấy.
Phải Phay Van không hè, chỗ mình với nhau mà còn khách khí gớm vậy? Vụ người lâm nạn đó để dành sau này làm một entry đi nghen, hì hì!
dạ không phải, một người bạn học chung thôi ạ. Em đó bị công an bịt miệng, tống lên xe, bắt đi. Khi được thả về những ngày sau đó còn bị công an tới nhà tra xét, hoạnh họe đủ thứ. Đúng là hèn với giặc, hung hãn với dân.
“Hèn với giặc, hung hãn với dân”, khẩu khí xem ra bức xúc dữ hầy, thế mà chỉ trương có cái B5, hì hì!
Dạ, bức xúc quá bác ạ, lòng dân phẫn nộ chỉ chờ được bùng ra.
Em đang chờ cách mạng … hoa sen :D. Hậu quả có thể là chế độ thối nát bị tiêu diệt, nhưng tận cùng của sự hy sinh vẫn là Nhân Dân.
“Em đang chờ cách mạng … hoa sen”
________
Hihi, cớ gì lại mang “quốc hoa” vào đây vậy ta! 😛
Sắp tớ bạn Ly viết Sử đi, ngành sử học phải vào cuộc
Hê hê, món sử này nên để bác Cua Đồng viết mới khúc chiết và đanh thép, Sơn ạ!
Hổng dám đâu, hổng dám đâu. Bác cứ quá khen 😀
Ý tui là văn bác Cua Đồng khúc chiết và đanh thép hơn… tui, hơn ai chứ hơn Ly thì có hàng vạn, vậy mà bác ấy nói mình khen ổng, he he!
Văn của anh Ly là văn mang hơi thở của miền Tây, câu chữ y như bê nguyên từ đời sống vào!
Bi ơi, đừng phỗng mũi, hi hi!
Ly ơi, đôi khi hãy phổng mũi!
He he, em viết sai chính tả cô hè, xin đính chính: “Bi ơi, đừng phổng mũi”! 😛