Lương Châu là địa danh cổ ở Tây vực, một trong 13 Thứ sử bộ đời Hán, nay thuộc thành phố Vũ Uy tỉnh Cam Túc, là trọng địa biên tái của Trung Hoa, nơi tranh giành cát cứ với Tây Nhung, Hung Nô, Thổ Phồn.
Còn “Lương Châu từ” là tên khúc nhạc phủ đời Đường, phỏng theo điệu hát vùng Lương châu. Thơ Đường có nhiều bài theo điệu Lương châu từ, nhưng lừng danh kiệt tác vẫn là Lương châu từ (bài 1) của Vương Hàn[1].
Vương Hàn tự Tử Vũ, người đất Tấn Dương (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây), không rõ năm sinh năm mất. Thi đỗ tiến sĩ vào năm Cảnh Vân nguyên niên (710) đời Đường Duệ tôn. Trưởng sử Tịnh châu là Trương Huệ Trinh hâm mộ tài Hàn, đề bạt ông làm Huyện úy Xương Nhạc (nay thuộc thành phố Duy Phường tỉnh Sơn Đông). Năm Khai Nguyên thứ 9 (721), Trương Thuyết, một người hâm mộ khác, lên làm Tể tướng đã triệu Hàn về làm Bí thư Chính tự, giúp mình trong việc thư tịch.
Vương Hàn vốn con nhà giàu có, tính tình hào phóng phong lưu, trong nhà nuôi nhiều ngựa quý và cả ban kỹ nhạc. Hàn thường khi uống rượu vui chơi hay tự sánh mình với bậc vương hầu nên bị nhiều người đố kỵ. Năm 726, Trương Thuyết thất sủng phải giáng làm Trưởng sử Nhữ châu, Vương Hàn cũng bị đổi ra Tiên châu (nay thuộc huyện Tây Phong tỉnh Liêu Ninh) làm chức nhàn quan hữu danh vô thực là Biệt giá. Sau ông lại bị biếm ra Đạo châu (nay thuộc huyện Đạo tỉnh Hồ Nam) làm Tư mã, cũng là chức nhàn quan khác. Ông mất vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đời Đường Huyền tôn, lúc đang trên đường sang nhiệm sở Đạo Châu.
Vương Hàn tính tình cuồng phóng, lại thêm hoạn lộ gập ghềnh bất như ý, từ đó hun đúc nên tài thơ ông. Thơ Hàn gân guốc cứng cỏi, dạt dào tình cảm, là thi nhân đứng đầu trường thơ biên tái Thịnh Đường. Với Lương châu từ, Hàn được Trương Thuyết tôn làm quỳnh lâm ngọc thụ trên thi đàn. Bà mẹ của Đỗ Hoa, một danh sĩ đương thời, cũng tán thán: “Nghe nói Mạnh mẫu phải ba phen dời nhà, còn như tôi đây được làm láng giềng Vương Hàn đã thỏa nguyện”.
Vương Hàn để lại 10 tập thơ, đến đời Tống thất lạc cả, nay chỉ còn lại 13 bài trong Toàn Đường thi; trong đó Lương châu từ (bài 1) là tuyệt phẩm[2].
《涼州詞》 王翰 Lương châu từ – Vương Hàn
葡萄美酒夜光杯 Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
古來征戰幾人回 Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Rượu bồ đào [rượu nho] đựng trong chén ngọc dạ quang
Định uống thì đàn tỳ bà giục ngựa đi
Say nằm giữa sa trường, xin người chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai về)
Rươu bồ đào, ngọc dạ quang là đặc sản Tây vực. Đàn tỳ bà cũng xuất xứ ở Tây vực, được Hung Nô dùng làm hiệu lệnh trong quân. Hai câu đầu mở ra bữa rượu tưng bừng giữa khung cảnh thê lương ngoài biên ải. Chất hào hoa pha lẫn kiêu bạc khiến lòng người sảng khoái. Hai chữ “dục ẩm” (định uống) càng làm tăng nhiệt náo cho tiệc rượu, nhưng cái thần câu thơ lại nằm ở hai chữ “mã thượng”(trên ngựa). Trên ngựa, tức đã chực ra roi xông trận đến nơi, nhưng cứ dùng dằng đi không đành vì chén rượu đang mời gọi, mà tiếng tỳ bà cứ giục giã trêu gan. Ở câu 2, phải ngắt nhịp 2-5 (Dục ẩm/ tỳ bà mã thượng thôi) mới thấy hết tình thế gay cấn tác giả bày ra. Gay cấn không phải vì ngựa hý quân reo mà vì chén rượu đang quyến dụ, hào tình này say biết mấy cho vừa. Tôi ngờ lắm, rằng sau này hai chữ mã thượng trong văn bạch thoại có được cái nghĩa lập tức, ngay tức khắc là khởi từ câu thơ này của Vương Hàn!
Sang đến hai câu cuối là cực tả cơn thống khoái của chinh nhân, đã không chút ngần ngừ, bỏ quân lệnh ngoài tai để uống nốt chén rượu trọn tình với bạn bè. Uống với nhau một lần này, rồi có khi người ra trận sẽ mãi mãi không về. Hai câu thơ tưởng chừng khinh bạc xem thường sinh tử nhưng lại chất chứa vô hạn bi thương, phơi bày sự tàn nhẫn của chiến tranh.
Chỉ bốn câu thơ tả một tiệc rượu nhưng lại bao quát toàn cảnh khốc liệt nơi biên địa cùng sinh hoạt căng thẳng của người lính nơi tuyến đầu. Nơi biên tái dễ mấy dịp được cùng nhau gầy cuộc rượu, nhưng rượu vừa rót ra đã thành chén tử biệt sinh ly.
Một câu đầu “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi” mở ra vẻ tươi vui, không chỉ bằng màu sắc sáng rỡ mà còn bằng cả mùi rượu ngạt ngào hưng phấn. Câu hai bắt đầu bằng hai chữ “dục ẩm” kích thích cơn thèm được say, lại chen thêm tiếng tỳ bà dồn dập.
Nếu hai câu đầu kể việc thì hai câu sau chuyển sang tả tình: sự lựa chọn đã dứt khoát, cứ uống với nhau đã, mặc sau đó ra sao. Hào tình thì vạn trượng mà bi thương cũng cực điểm. Lời mời rượu cũng là lời giã biệt. Bốn chữ “túy ngọa sa trường” có cái hào hùng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng nhưng lại đè nặng ám ảnh cả vùng chiến địa.
Tiết tấu bài thơ dồn dập, đang rộn rã hào hoa thoắt đã thành máu xương rên siết; tình tự bi hùng khiến người đọc ngàn năm sau mãi vẫn bồi hồi.
Một bài thơ miêu tả đời sống người lính nơi trận mạc, với tình cảnh gay cấn, không phải vì sự nguy hiểm của hòn tên mũi đạn, mà bởi một chén rượu bồ đào. Người lính đã mở lòng với bạn, cùng nhau tận hưởng sum vầy lần cuối. Trong ba chữ “quân mạc tiếu” uẩn tàng tiếng khóc thầm lặng cho một kiếp người.
Bài này của Vương Hàn là thơ phản chiến. Ông ca tụng can trường của người lính chiến, nhưng cũng là nhỏ lệ khóc thương họ. Đã bao nhiêu “chiến sĩ anh hùng lạnh lùng vung gươm ra sa trường”[3] những mong kiến công lập nghiệp để rồi mãi mãi nằm lại ngoài biên ải!
Trường thơ biên tái thời Đường có những tên tuổi lớn: Dương Quýnh, Trần Tử Ngang, Đỗ Thẩm Ngôn, Lục Du, Vương Xương Linh, Sầm Tham, Lý Hạ v.v… Lương châu từ của Vương Hàn chiếm ngôi đầu bảng trong tất cả thơ biên tái của các nhà đó, vì đây là khúc bi ca vinh danh người tử sĩ, một đài tưởng niệm sừng sững bất chấp thời gian lẫn không gian.
* * *
Viết đến đây tưởng đã đủ ý, nhưng tôi lại không khỏi nhớ đến một chuyện lạ lùng, là bài thơ “Tặng đồng chí Trần Canh” của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh khi tháp tùng đoàn cố vấn Liên Xô sang giúp Trung Hoa Dân quốc (khoảng 1924-1927) với bí danh Lý Thụy, đã được làm quen với một học viên của Học viện Sĩ quan Lục quân (trường Hoàng Phố) là Trần Canh. Hơn 20 năm sau, vào đầu năm 1950, trong chuyến công du bí mật kết nối với Liên Xô-Trung cộng, Minh gặp lại Canh ở Nam Ninh (Quảng Tây). Lúc này, một bên đã là chủ tịch nước, một bên là Trung tướng Tư lệnh Quân khu Tây Nam của Hồng quân Trung cộng, hùng cứ một dãy suốt từ Giang Tây đến Quảng Tây. Minh cao hứng, ứng khẩu đọc hai câu thơ để mừng cố nhân:
亂石山中高士臥 Loạn thạch sơn trung cao sĩ ngọa
茂密林裏英雄來 Mậu mật lâm lý anh hùng lai
(Trong núi đá có người hiền ở ẩn; Chốn rừng rậm có anh hùng đến).
Nguyên đây là hai câu trong bài thơ vịnh hoa mai nổi tiếng của Cao Khải đời Minh, vị chủ tịch đã mượn luôn hai câu sẵn đó, và thay từ “mỹ nhân” bằng “anh hùng” để mừng vị tướng quân.
Cuối năm đó, Hồ Chí Minh lại yêu cầu đích danh Trần Canh sang giúp trong Chiến dịch Biên giới (bắt đầu vào tháng 10/1950), và Trần Canh đã dẫn đầu đoàn cố vấn quân sự Trung cộng sang Việt Nam. Dịp này, Hồ Chí Minh lại “nhại” bài Lương châu từ của Vương Hàn để tiếp rượu Trần Canh:
香檳美酒夜光杯 “Hương tân” mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
敵人休放一人回 Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi[4]
(Rượu “sâm-banh” trong chén ngọc dạ quang
Sắp uống thì tỳ bà trên ngựa giục giã
Say nằm sa trường người đừng cười
Chớ để một tên địch nào được trở về)
[“Hương tân” 香檳 là chữ dùng để phiên âm “champagne”!]
Đây chỉ là “nhại thơ” bình thường, lẽ ra không nên để ý mà lướt qua luôn cho yên chuyện. Vì bài thơ nhại quả thực vô duyên: rượu champagne thì phải uống bằng cốc pha lê trơn trong suốt, để thưởng thức cho thỏa màu sắc và độ sánh của rượu, uống bằng chén ngọc trong trường hợp này cũng bằng uống chén sành, còn gì cái thú. Đã vậy, tiếng tỳ bà ở đây cũng thành ngang phè. Và điều đại kỵ là nhại một bài thơ có huông, với câu kết “Xưa nay chinh chiến mấy ai về” để thù tạc với một người sắp ra trận thì khác gì muốn trù ẻo người ta.
Hồ Chí Minh hẳn biết rõ Lương châu từ là bài thơ phổ biến rộng rãi. Ở xứ ta, đừng nói ngoài Bắc là đất Nho học, trong Nam này, vào những năm 195X, soạn giả Viễn Châu đã soạn bài vọng cổ “Võ Đông Sơ” bất hủ với giọng ca Minh Cảnh:
Ta muốn kêu lên ba tiếng “Bạch Thu Hà”. Bạch Thu Hà ơi! Tim ta như ngừng đập, máu tuần hoàn ngưng chảy khắp châu thân. Thôi thôi, lỡ làng tiếng hẹn trăm năm, từ đây nàng có nhớ đến ta hãy ngâm câu “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”… (Câu 5)
Trong đó, nguyên văn chữ Hán của thơ Vương Hàn được giữ nguyên, dân miền Nam ai nghe qua cũng hiểu. Người nước ta đã vậy, huống chi viên tướng Tàu là Trần Canh lại không biết thơ đó từ đâu ra ư?
Tất nhiên, Hồ Chí Minh chẳng khi nào ngớ ngẩn đến mức cho thứ nhại đó là trứ tác, chẳng qua chỉ là đẩy đưa lúc vui miệng chuyện trò, nhưng những kẻ nịnh bợ sau này lại tâng luôn bài nhại này thành… thơ hay, in vào tuyển tập thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, đặt cho nó cái tựa là “Tặng Trần Canh đồng chí” 贈陳賡同志 với những lời ca tụng khiến người đọc phải sượng cứng mình.
Lối tâng bốc trơ trẽn, nâng “Tặng Trần Canh đồng chí” vào hàng thơ hay, cho nó sánh với Lương châu từ là trò lố bịch và ngu xuẩn nhất của các nhà phê bình bồi bút.
_______
[1] Lương châu từ, (bài 2) của Vương Hàn:
秦中花鳥已應闌 Tần trung hoa điểu dĩ ưng lan
塞外風沙猶自寒 Tái ngoại phong sa do tự hàn
夜聽胡笳折楊柳 Dạ thính Hồ già chiết dương liễu
教人意氣憶長安 Giao nhân ý khí ức Trường An
(Trong đất Tần, hoa sắp tàn, chim bay đi gần hết
Ngoài quan ải gió cát vẫn lạnh lẽo
Đêm nghe tiếng kèn lá của người Hồ thổi khúc “bẻ liễu”
Làm ý người ta phải nhớ về Trường An)
[“Chiết dương liễu”: người xưa khi ly biệt thường bẻ cành liễu tặng nhau để tỏ tình lưu luyến, vì chữ liễu đồng âm với lưu].
Hai câu thơ nổi tiếng của Quang Dũng trong Bài ca Tây tiến: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” phảng phất ý thơ này của Vương Hàn.
[2] Vương Chi Hoán, tác giả Đăng Quán Tước lâu cũng làm một bài Lương châu từ, nhưng vẫn kém hơn bài của Vương Hàn mấy bậc.
出塞《涼州詞》 Xuất tái – Lương châu từ
黃河遠上白雲間 Hoàng hà viễn thướng bạch vân gian
一片孤城萬仞山 Nhất phiến cô thành vạn nhận san
羌笛何須怨楊柳 Khương địch hà tu oán dương liễu
春風不度玉門關 Xuân phong bất độ Ngọc môn quan
(Hoàng hà phía xa lên đến giữa chừng mây trắng
Một mảnh thành cô quạnh, núi cao vạn trượng
Tiếng sáo Khương cần chi thổi khúc “dương liễu”
Gió xuân không qua được ải Ngọc môn)
[“Nhận” là đơn vị đo lường cổ, chừng 7, 8 tấc. “Khương” tức Khương Nhung, tộc cổ du mục. “Dương liễu” tức khúc “Chiết dương liễu”. Ngọc môn quan là cửa ải hiểm yếu địa đầu Tây vực].
[3] Lời bài hát Chiến sĩ Việt Nam – Văn Cao.
[4] “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh”, Nxb Văn Học, Hà Nội 1990).
Thằng này viết gì mà câu từ đá nhau chan chát như thằng khùng!