Nếu nói về các sứ thần Đại Việt ta, thì Mạc Đĩnh Chi là người đứng đầu, một danh nhân văn hóa, vang danh “Lưỡng quốc trạng nguyên”. Năm 2012, ông được tôn làm ông tổ của ngành ngoại giao, theo đó mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ trở về, các đại sứ Việt Nam sẽ đến dâng hương tại đền thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (ở Thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) để báo công.
Mạc Đĩnh Chi (1284 – 1361) tự là Tiết Phu, người làng Lan Khê huyện Bàng Hà lộ Lạng Giang (nay là huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Hưng) sau dời sang làng Lũng Động, huyện Chí Linh cùng trong lộ đó (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông tướng mạo xấu xí (nên có truyền thuyết mẹ ông có mang với loài linh trưởng mà sinh ra ông) nhưng trí tuệ cực kỳ thông minh mẫn tiệp.
Năm Hưng Long thứ 12 (1304) đời Trần Anh tông, ông đỗ trạng nguyên, làm Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung Nội thư gia, sau thăng đến Tả bộc xạ dưới thời Trần Hiến tông (1329-1341). Ông học rộng thông minh, tính liêm khiết, thẳng thắn, làm quan nhưng vẫn nghèo. Năm 1308 phụng mệnh Trần Anh tông đi sứ Nguyên, nhiều lần bị thử tài nhưng đều ứng đối trôi chảy, tỏ ra rất nhanh trí, tài năng và phẩm chất thông minh của ông khiến Nguyên triều trên dưới đều phải nể phục.
Những mẩu chuyện về đời hoạt động ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi thì nhiều lắm. Đặc biệt là tài năng ngoại giao của Tiết Phu tiên sinh hiển lộ toàn ở chỗ… làm câu đối. Loại câu đối ngoại giao này thì Mạc Đĩnh Chi đứng đầu bảng về số lượng so với các sứ thần khác, tôi chỉ nêu vài câu tiêu biểu thôi:
1/. Phái bộ của Mạc Đĩnh Chi đến cửa khẩu nhằm lúc trời tối, cửa quan đã đóng. Quân canh bắt phải chờ đến sáng hôm sau. Sứ bộ Đại Việt nằn nì mãi, viên quan giữ ải thả từ trên lầu cao xuống một vế đối, giao hẹn nếu đối được thì sẽ mở cửa cho qua. Vế đối là:
過闗遲闗官閉閼過客過闗 Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan
(Tới cửa ải chậm trễ, cửa ải đóng, người coi ải đóng cửa không cho khách qua)
Vế đối hóc búa ở chỗ có các điệp từ “quan” và “quá” ngoắt nghoéo nhau. Mạc Đĩnh Chi thấy khó mà đối lại, nhưng ông đã nhanh trí để đối mẹo như sau:
先對易對對難請先生先對 Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
(Ra vế đối trước thì dễ, đối lại mới khó, xin mời ngài đối trước).
Vế đối của ông có 4 chữ “đối” và 3 chữ “tiên”, quá là hay, nên viên quan coi ải vái hai vái và mở cửa ải để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đi qua biên giới vào giữa đêm.
(Lời bàn của Điền Cu Ly tiểu tử:
– Đọc âm Hán Việt thì vế ra có 4 chữ “Quan”, những chữ “Quan” khác đều có nghĩa là “cửa ải”, nhưng chữ “Quan” thứ ba lại có nghĩa là “quan tước”; vế đối lại của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “Đối”, nhưng đều chỉ có một nghĩa là “đối đáp”, nếu Cu Ly này là người giữ ải nhất định đánh rớt, cấm cửa luôn he he!
– Cứ tưởng trấn cửa ải phải là võ tướng, ai dè quân Nguyên lại có lệ cho một viên văn quan ra giữ ải; đã vậy, viên quan coi ải này lại là người phóng túng bất chấp quân lệnh, chỉ vì một vế đối mà dám mở toang cửa ải cho cả đoàn người đi qua lúc nửa đêm!)
2/. Tới Yên Kinh, vua Nguyên lại ra vế đối:
日火雲煙白旦燒殘玉兔 Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố
(Mặt trời làm lửa, mây làm khói, lúc bình minh thiêu rụi vầng trăng)
Mạc Đĩnh Chi mỉm cười, đối lại:
月弓星磾黃昏射落金烏 Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô
(Vầng trăng là cánh cung, sao là đạn, buổi hoàng hôn bắn rớt mặt trời).
(Điền Cu Ly tiểu tử lại bàn:
Vế đối này chẳng những rất chuẩn, mà khẩu khí lại kinh người, đọc lên nghe sảng khoái lạ lùng. Một sứ thần mà dám buông lời đối đá mạo phạm như vậy thì nói thiệt, có là Phạm Nhan cũng chẳng kịp mọc lại đầu cho đao phủ chém đâu. Nếu dò xuống đời sau này có Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, nhận Mạc Đĩnh Chi làm ông tổ, lại truy phong làm “Viễn tổ Kiến Thủy Khâm Minh Văn hoàng đế”, thì sẽ nhận ra trên kia chính là câu đối do bọn hậu sinh đặt ra nhét chữ vào mồm Mạc Đĩnh Chi, để ra cái điều họ Mạc lên ngôi là điềm ứng từ trước, hơ hơ!).
Lại có câu chuyện rằng công chúa nhà Nguyên mất, sứ thần An Nam vào tế lễ, vua Nguyên đưa cho chánh sứ ta bài điếu văn viết sẵn, bảo đọc lên cho nghe. Mạc Đĩnh Chi mở ra thì chỉ thấy viết có một chữ “Nhất”, biết rằng đó là cách vua Nguyên thử tài, ông bèn lấy chữ “Nhất” đó làm đề văn, ung dung ứng khẩu đọc luôn:
青天一朵雲 Thanh thiên nhất đóa vân
烘爐一點雪 Hồng lô nhất điểm tuyết
上苑一枝花 Thượng uyển nhất chi hoa
瑤池一片月 Dao trì nhất phiến nguyệt
噫雲散雪消花殘月缺 Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
(Một đám mây giữa trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một cánh hoa trong vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt hồ
Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)
Bài tế này đáng gọi là hay, nhưng e xuất xứ là do tưởng tượng: Mạc Đĩnh Chi đi sứ là để mừng Nguyên Vũ tông lên ngôi, đang kỳ khánh chúc đăng quang mà một công chúa mất lại được sứ thần đến viếng, lại tế lễ rình rang như vậy ắt phải là người có tiếng. Tôi tìm danh sách các công chúa đời Nguyên Vũ tông (1281-1311), trị vì từ năm 1307 – 1311 là giai đoạn Mạc Đĩnh Chi đi sứ thì chỉ thấy có Tường Ca Lạt Cát 祥哥剌吉 là chị em của Vũ tông được phong “Lỗ quốc công chúa” là người được ghi trong Nguyên sử, nhưng bà này lại mất năm 1331, tức 23 năm sau khi Mạc Đĩnh Chi đi sứ!
Về danh hiệu “Lưỡng quốc trạng nguyên”, chuyện kể rằng Mạc Đĩnh Chi cùng với sứ thần các nước ra mắt vua Nguyên. Vua Nguyên bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Giữa lúc Mạc Đĩnh Chi còn tìm tứ thơ, thì sứ Triều Tiên đã viết liến thoắng. Ông nhìn theo quản bút và với sự nhanh trí kỳ lạ, ông đoán được ý của sứ Triều Tiên rồi lấy ý đó để phát triển thành một bài văn xuất sắc. Vì thế, vua Nguyên cảm phục tài đức của Mạc Đĩnh Chi, phong ông làm “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Lạy hồn, người ta quen lối phong Trạng búa xua của xứ An Nam, bất cứ ai có chút tài mọn gì cũng được phong Trạng, nào Trạng Lường, Trạng Ăn, Trạng Lợn… (còn có chuyện Mạc Đĩnh Chi chơi cờ thắng “Trạng cờ” của nhà Nguyên nên giành luôn ngôi “Trạng cờ” nữa chứ!), nên tưởng danh vị Trạng Nguyên của Tàu là nhẹ lắm, hứng lên là vua phong Trạng như đùa ấy nhỉ?
Và có ai thử kiểm chứng việc nhìn quản bút ngó ngoáy mà… đoán được chữ viết qua chưa? Hãy cầm bút viết chữ, một chữ thôi, và nhờ nhà thư pháp tài danh nào đó ngồi ở xa ngó quản bút mà đoán xem, ông ta sẽ đoán được chữ gì? Và cứ cho là Mạc Đĩnh Chi có tài đoán chữ như thần, thì việc đạo văn kia có đáng hãnh diện chăng?
Và điều quan trọng là cái danh vị “Lưỡng quốc trạng nguyên” nghe rất kêu kia thật là lại chuyện đơm đặt, chính sử không hề ghi. Oái oăm thay, lịch sử nước ta có ba người được phong “Lưỡng quốc trạng nguyên” là: Mạc Đĩnh Chi (triều Trần Anh tông), Nguyễn Trực (triều Lê Thái tông), và Nguyễn Đăng Đạo (triều Lê Hy tông) thì đều là khẩu thiệt vô bằng, không hề được ghi trong chính sử, của Tàu lẫn của ta!
Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 6, tờ 24 a và b) ghi chép về Mạc Đĩnh Chi không hề nói đến danh hiệu “Lưỡng quốc trạng nguyên”, và có kể mẩu chuyện như sau:
“Đĩnh Chi thấp bé nên người Nguyên khinh ông. Một hôm, viên tể tướng mời ông vào phủ, cho cùng ngồi. Lúc ấy đang hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có treo bức trướng mỏng, trên thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ làm như mình nhầm tưởng là chim sẻ thật rồi chạy đến bắt. Người Nguyên thấy vậy cười ồ, cho là người phương xa bỉ lậu (thô bỉ quê mùa). (Bất thình lình) Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống, xé đi. Mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao, Đĩnh Chi đáp rằng: Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ chứ chưa hề thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay bức trướng của tể tướng lại có hình chim sẻ đậu cành trúc. Trúc là biểu tượng của bậc quân tử, chim sẻ là biểu tượng của kẻ tiểu nhân, tể tướng làm như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy, tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân vậy. Mọi người nghe vậy đều phục tài ông”.
Tôi thật chẳng hiểu tại sao sử lại ghi chuyện này? Thân là sứ thần mà lại bộp chộp, thấy chim vẽ tưởng là chim thật, làm mất cả điềm đạm oai nghi; đã vậy lời chữa thẹn kia chỉ là trò lợi khẩu ranh vặt, chứ có gì là biểu hiện tài hoa khiến người Nguyên phải nể phục? Và chết người lại ở chỗ nhà Nguyên không hề có chức tể tướng, mà chỉ có Tả thừa tướng (thường là võ tướng) là chức quan tối cao, chứ không có đặt “Tể tướng”, thế là thế nào nhỉ?
Những giai thoại về Mạc Đĩnh Chi, vâng, những chuyện đối đáp của Mạc Đĩnh Chi đều là giai thoại, bởi tất cả những đối đá đó đều phát xuất từ “Cát Xuyên tiệp bút” của Trần Tiến (1709-1770). “Cát Xuyên tiệp bút” nay đã thất lạc, nhưng phần ghi chép về Mạc Đĩnh Chi còn được chép lại trong “Tục Công dư tiệp ký”. Trần Tiến tuy sinh sau Mạc Đĩnh Chi cả 500 năm, nhưng là đồng hương (cùng huyện Chí Linh), và sách “Cát Xuyên tiệp ký”, cũng như các tác phẩm cùng loại: “Công dư tiệp ký”, “Vũ trung tùy bút”, “Tang thương ngẫu lục”, “Nam thiên trân dị tập”, “Bản quốc dị văn lục” v.v… đều chỉ là loại sách ghi những chuyện truyền khẩu ta bà quái dị kỳ ảo, dùng để tán láo trà dư tửu hậu thì được, chứ còn lấy đó làm thiệt thì đáng buồn cho sử học nước nhà lắm thay!
Nên biết, đời Nguyên Vũ tôn, chính sự nhiễu nhương, trong triều thì các thế lực mâu thuẫn mưu toan triệt hạ nhau, ngoài biên thì Phù Tang (Nhật Bản) bất phục khuấy phá tan hoang cả vùng duyên hải. Tình thế đó mà ông vua Nguyên rảnh quá ha, ở đó đi lo việc mần thơ đối đá với một sứ thần của An Nam đại quốc!
Và còn một chi tiết mà người ta thường cố tình lướt qua về thân thế Mạc Đĩnh Chi, là ông từng là gia thần của Chiêu Quốc công Trần Ích Tắc. Hãy ngẫm mà xem sẽ thấy có chuyện thú vị: một kẻ tướng mạo xấu xí như Mạc Đĩnh Chi, thuở hàn vi lại được Trần Ích Tắc – kẻ bị mang danh tội đồ phản quốc “cõng rắn cắn gà nhà” – nhìn ra chân tài, nuôi cho ăn học; sau này, cũng người đó, tài đè bẹp các Thái học sinh, lại suýt bị Trần Anh tông đánh trượt, phải làm bài phú “Ngọc tĩnh liên” dâng lên mới được cho làm Trạng nguyên, lạ quá chi ta!
Kết lại, theo ý riêng tôi, tôi cực lực phản đối các loại giai thoại ngoa truyền, tô vẽ vô lối chỉ làm giảm giá tiền nhân mà thôi. Trong tôi, vẫn là lòng quý mến ông chân thành. Một đời chuyên cần học hỏi, ra làm quan thì một mực thanh bạch khí tiết, trải 3 đời vua một dạ dốc lòng tận tụy với dân với nước, nhiêu đó đã đủ người đời tôn kính khói hương tưởng nhớ rồi, cần chi những danh vị hão, phải chăng, thưa Tiết Phu tiên sinh?
__________
Viết đến đây tưởng đã đủ, nhưng lại tra ra thêm thông tin phó thủ tướng Vũ Đức Đam kể chuyện Mạc Đĩnh Chi cho học sinh nhân ngày khai giảnghttp://vtc.vn/pho-thu-tuong-ke-chuyen-luong-quoc-trang-nguy…, tôi không thể dừng được cái thú… dìm hàng phó thủ tướng, he he!
“Các em chắc đều nhớ cụ Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên đã làm vinh danh cho nền văn hiến của nước ta.
Cụ Mạc Đĩnh Chi xuất thân vốn là con một gia đình rất nghèo, không có đèn để đọc sách, phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để làm đèn. Còn rất nhiều những tấm gương sáng của các em vượt lên số phận, vượt qua nghèo khó để thành những học sinh giỏi” – Phó Thủ tướng kể lại.
Tui lạy phó thủ tướng ba lạy luôn đi, ông nhắc danh xưng “Lưỡng quốc trạng nguyên” có thể là vì quen mồm, nhưng còn chuyện bắt đom đóm làm đèn mà ông cũng nói được thì tui phục ông quá! Chẳng biết có khi nào ông thử bắt đom đóm bỏ vô vỏ trứng, coi thử có thể dùng đó làm đèn đọc sách được hông vậy a, ông phó?
Bài văn tế theo tôi biết còn 1 câu nữa là:
Thiên tử thống tâm lê dân khấp huyết
*thanh thiên= trời xanh
*hồng lô=lau (sậy)đỏ (sắc, mùa thu)
hồng (bộ mịch đi với chữ công)
lô (bộ thảo đầu thay cho bộ hỏa của chữ lô(lò)
Hồng lô nhất điểm tuyết
Một bông tuyết trong (ngàn) lau đỏ
(dấu hiệu của mùa thu chớm đông)
Lạm bàn cho vui, đúng sai xin miễn chấp
Lần đầu tôi được nghe thêm một câu nữa của bài văn tế này đó nha! 🙂
Nhưng tôi thấy câu đó thêm vào là thừa, làm mất cái hay của hơi văn đi, “Vân tán tuyết tiêu hoa tàn nguyệt khuyết” là một câu kết gọn đẹp quá rồi, thêm vào cái gì cũng mất hay. Ý ngu tôi nghĩ vậy, mong các hạ khoan thứ cho, he he!
Nguoi viet bai hieu biet kem ve lich su Viet Nam
Người còm quả là rành sử Việt. Nhưng anh bạn gõ chữ không ra hồn kiểu này lần nữa, tôi sẽ xóa đó nha!
Cái lí luận của ông rỗng lắm ông viết báo à
Bạn đã thử bắt con đom đóm bao giờ chưa? Tôi đã từng bắt 1 con để trong lòng bàn tay, quả thật là rất sáng trong bóng đêm, nhưng chỉ là 1 đốm nhỏ, nên gom lại bỏ vào vỏ trứng làm đèn là chuyện hoàn toàn có thể làm được và rất sáng tạo. Cũng giống như ông Edison dùng những tấm gương tạo thành ánh sáng cho “phòng phẫu thuật” để BS mổ cho bà mẹ vậy..Người nghèo thường rất sáng tạo để có thể vượt qua cái nghèo. Vui lòng đừng cố moi móc vạch lá tìm sâu để bôi nhọ chuyện có thật theo ý chủ quan của mình. Chuyện bắt đom đóm bỏ vô vỏ trứng làm đèn học cũng có Nguyễn Hiền, Trạng Nguyên trẻ nhất lịch sử Việt Nam, nhắc như vậy để bạn cũng có thể cười nhạo báng bôi nhọ luôn ông ấy nếu thích.