Duyệt binh là danh từ dùng để gọi nghi thức phô trương sức mạnh quân sự của một quốc gia ở quy mô lớn. Nghi thức trọng thể này được tiến hành bởi vị chỉ huy tối cao duyệt qua các đội hình tinh binh mãnh tướng. Duyệt binh thường được cử hành vào những dịp đại lễ kỷ niệm chiến công, trước khi quân đội xuất chinh hoặc sau khi chiến thắng khải hoàn v.v… Về ý nghĩa, nghi thức duyệt binh là để phô diễn những thành tựu quân sự; đồng thời cổ vũ sĩ khí, nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội.
Về lễ duyệt binh đầu tiên của Việt cộng, báo đảng sẽ trích hồi ký Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) của Archimedes Pattikhoe[1] để khoe rằng ngay từ những ngày đầu mới thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có cuộc duyệt binh tưng bừng mừng cướp được chính quyền, đó là cuộc “duyệt binh” sáng 30-8-1945, ba ngày trước khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội.
Về cuộc duyệt binh này, chính Võ Nguyên Giáp có nhắc đến: Một cuộc duyệt binh của Quân giải phóng và tự vệ thành được tổ chức tại quảng trường Nhà Hát Lớn trước niềm hân hoan, tin tưởng của đồng bào[2]. Trích báo Nhân Dân: Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp trong Chính phủ lâm thời của Việt Nam đã đến gặp và mời ông [Archimedes Pattikhoe] dự một nghi lễ chào mừng đại diện lực lượng đồng minh. Ngoài cửa, có rất đông người tề tựu thành đội ngũ. Một dàn nhạc binh chừng 50 người và một đơn vị khoảng một trăm quân nhân với những lá cờ của năm quốc gia đồng minh và Việt Nam. Quốc thiều từng nước được cử cùng Quốc thiều Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Rồi kết thúc bằng một cuộc diễu hành của các tầng lớp quần chúng với nhiều khẩu hiệu mà người ta có thể đọc thấy như Vietnam to the Vietnamese (Nước Việt Nam của người Việt Nam), Independence or death (Ðộc lập hay là chết)…[3]. Với “một đơn vị khoảng một trăm quân nhân” lẩy bẩy như Cao Biền dậy non mà được ông tướng góp gió làm bão, thổi lên thành cuộc… “duyệt binh”!
Được biết đến nhiều nhất là đại duyệt binh ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám thành công và 10 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2/9/1955, có đủ các đội hình hải-lục-không quân với cả du kích, dân quân cùng tham gia diễu binh, diễu hành và bắn pháo bông.
Giữa hai mốc 1945 và 1955 là cuộc duyệt binh năm 1950 đã được Việt Minh giấu nhẹm, nhưng lại bị Đại tướng Trần Canh[4] ghi lại trong nhật ký của mình[5]. Võ Nguyên Giáp là viên đại tướng ba hoa thành thần, bạ đâu cũng nổ tứ tung ngũ hoành; thậm chí dù chỉ đóng vai trò hết sức mờ nhạt trong “đại thắng mùa xuân 1975”, nhưng sau khi Lê Duẩn mất cũng ráng ra hồi ký đặng giành công trạng[6]. Vậy tại sao Giáp lại ém nhẹm vụ duyệt binh lừng lẫy này?
* * *
Tướng Việt cộng đã giấu, âu là ta hãy nghe tướng Trung cộng kể vậy. Sau đây là tường thuật của Trần Canh:
Mùa Thu 1950 có thể nói là mùa Thu vàng của Việt Minh. Chiến dịch Biên giới thắng lợi, những chiến công liên tiếp khiến Việt Minh nổi lên như ngôi sao sáng trên bầu trời chính trị Đông Nam Á. Đã qua rồi cái thời chui lủi, giờ đây Việt Minh đã trở thành lực lượng khiến thực dân Pháp phải kiêng dè. Họ vừa “giải phóng” khai thông toàn bộ vùng biên giới Việt-Trung để mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ Trung cộng, đồng thời tiêu diệt một phần sinh lực quân đồn trú của Pháp và phá thế bị cô lập của căn cứ địa, mở rộng phạm vi hoạt động của “thủ đô gió ngàn”[7].
Lúc này, đoàn cố vấn quân sự Trung quốc định nhân cơ hội sĩ khí đang lên để huấn luyện đám du kích xào-bát miền Thượng, nâng level chúng lên cho xứng danh Bộ đội cụ Hồ[8]. Thì đùng một phát, Võ Nguyên Giáp lệnh cho cử hành đại lễ duyệt binh ở Cao Bằng (vừa mới chiếm được) vào ngày 24-10. Trần Canh phản đối quyết định này với lý do các chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam hầu như chưa từng qua khóa huấn luyện chính quy nào, vũ khí thì thiếu hụt, và quân trang thì như hạch, chẳng ra cái hồn yêu ma tiểu xú gì; và quan trọng nhất, làm vậy khác nào trêu gan rủ Pháp thả bom. Nhưng anh Văn lại đang máu phô trương: được phong Đại tướng ngang hông hơn 2 năm rồi, anh vẫn chưa duyệt được cuộc binh nào cho xứng với tầm danh tướng. Vậy là anh tướng cùi bắp viện đủ lý do đặng đòi duyệt binh bằng được, rằng cuộc duyệt binh vào lúc này là dịp để cổ vũ tinh thần binh sĩ, sẽ có ích lợi tinh thần rất lớn; và quan trọng nhất là “bác của tao” đã phê chuẩn cho phép duyệt binh rồi. Trần Canh hết ý kiến, đành chỉ hạ lệnh cho những thuộc cấp trong đoàn cố vấn quân sự của mình không được léng phéng la cà đi xem tụi Việt Minh làm trò ruồi bu hột xoài.
Vào buổi chiều diễn ra duyệt binh ở Cao Bằng, tuy đã có lệnh của trưởng đoàn Trần Canh nhưng vẫn có hai viên cố vấn Tàu là Châu Diệu Hoa và Điền Đại Bang[9] lén đi xem. Quả nhiên quân đội Pháp đã không bỏ lỡ dịp may, phái ngay máy bay đến tham gia duyệt binh, thành quả là hơn 70 binh sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam bị thương vong, còn đám đông quần chúng đi ngóng bị tổn thất bao nhiêu mạng thì không ai thống kê. Ở cách đó 20km, Trần Canh nghe được cả tiếng bom đạn gầm rú điên cuồng. Canh ghi vào nhật ký: “Buổi chiều, tiếng bom nổ dữ dội làm mặt đất rung chuyển, trận oanh tạc kéo dài khoảng 20 phút”.
Tuy bị địch quân quấy phá không khí trang nghiêm của buổi lễ nhưng quyết tâm của anh Văn và các lãnh đạo trung ương không hề bị dao động. Hiện trường lập tức được thu dọn vệ sinh để cuộc duyệt binh không bị gián đoạn. Tiếng kèn trống tưng bừng tấu lên chen lẫn tiếng khóc than rền rĩ của những thân nhân kẻ bị thương vong, hình ảnh và âm thanh ấy gây ấn tượng đặc biệt không phai đối với các cố vấn Tàu.
Hơn một tuần sau, Trần Canh cuốn nóp về nước, cự tuyệt mọi ân cần cầm giữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thậm chí, trong thư tiễn Canh về nước, Minh còn gọi người bạn trẻ tuổi hơn mình là “Đông huynh” 東兄 và ký tên “Đinh” 丁 (Đông là biệt hiệu của Canh lúc ở Việt Bắc, và Đinh là biệt hiệu của Minh)[10]. Hai người sau này chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa.
* * *
Đúng 67 năm đã trôi qua kể từ buổi chiều duyệt binh đình đám và máu lửa của “người hùng Điện Biên” ở Cao Bằng, bài viết này như một nén nhang thắp cho đại tướng tài lanh ngựa bà, chúc ông nghỉ khỏe!
_______
[1] Ai quan tâm có thể đọc bản dịch Việt ngữ ở đây:
[2] Những năm tháng không thể nào quên, hồi ức Võ Nguyên Giáp, Hữu Mai ghi – Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1990 (Phần Một, đoạn IV).
[4] Trần Canh (1903 -1961): đại tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Người huyện Tương Hương, Hồ Nam.
1922, học trường Lục quân Hoàng Phố, là một trong “Hoàng Phố tam kiệt” lừng danh.
1925, tham gia các cuộc tiễu phỉ “Đông chinh” của chính phủ Quốc dân đảng, đảm nhiệm Tổng chỉ huy Cảnh vệ, từng cứu mạng Tưởng Giới Thạch. Sau đó sang Liên-xô thụ huấn công nghệ gián điệp.
1927, về nước tham gia cuộc khởi nghĩa Vũ Xương của Trung cộng chống chính phủ Quốc dân đảng, rồi phụ trách công tác tình báo của Trung cộng ở Thượng Hải.
1931, đảm nhiệm Sư đoàn trưởng của Phương diện quân Số 4 Hồng quân, hoạt động ở Quân khu Ngạc Dự Hoàn Tô 鄂豫皖蘇 (Ngạc là tên gọi tắt tỉnh Hồ Bắc, Dự – Hà Nam, Hoàn – An Huy, Tô – Giang Tô), bị thương nên về Thượng Hải điều trị thì bị quân Tưởng bắt.
1933 được thả, đến Chiến khu Giang Tô (lúc này, “Trung ương Tô khu” đang ở thời kỳ cực thịnh, làm chủ một dải Giang Tây, Phúc Kiến với 60 đơn vị hành chánh huyện) phụ trách tham mưu chiến lược.
Kháng chiến chống Nhật, 1937 đảm nhiệm Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 386 Sư đoàn 129 Bát lộ quân.
Nội chiến Quốc-Cộng lần 2, 1945 Tư lệnh kiêm Chính ủy Binh đoàn 4 thuộc Dã chiến quân Số 2. Từng tham gia các chiến dịch lớn như Hoài Hải, Độ Giang, công chiếm một dải Hoa Trung, Hoa Nam, trực chỉ biên giới Vân Nam.
1950, Hồ Chí Minh thỉnh cầu Mao Trạch Đông cho đoàn cố vấn quân sự sang giúp Việt Minh kháng Pháp và nêu đích danh Trần Canh. Tháng 7, làm Trưởng đoàn cố vấn quân sự của Trung cộng sang viện Việt.
Tháng 4-1951, Tư lệnh kiêm Chính ủy Binh đoàn 3 Chí nguyện quân Trung quốc sang Triều Tiên đánh Mỹ.
Tháng 6-1952 về nước, đảm nhiệm Viện trưởng Học viện Quốc phòng cho đến khi mất.
Tháng 10-1954, Phó tổng Tham mưu trưởng Giải phóng quân Trung quốc.
Đến 1955 mới được thăng Đại tướng (về mặt lên lon, Canh kém Giáp hơn nửa con giáp).
1958, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Quốc phòng Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 16 tháng 3 năm 1961, qua đời tại Thượng Hải.
[5] Trần Canh nhật ký, Nhân Dân xuất bản xã, Bắc Kinh 2013.
[6] Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb Chính Trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
[7] Tức Chiến khu Việt Bắc, chữ dùng của Tố Hữu:
Vui sao một sáng tháng Năm
Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn…
(Sáng tháng Năm – tập “Việt Bắc”, 1954).
[8] Điểm lại những cuộc chiến tranh vệ quốc của Bắc Việt từ ngàn năm trước cho đến cuối thế kỷ XX, trực diện sống mái với kẻ thù luôn luôn là những sắc tộc thiểu số ở biên cương đưa đầu ra đón hòn tên mũi đạn, còn tụi huênh hoang gõ phím bình thiên hạ thời bình thì khi gặp cơn nguy biến đều đào tỵ biệt tăm.
[9] Điền Đại Bang (1919-2000): người tỉnh Sơn Tây, tham gia Cộng đảng từ 18 tuổi (8-1937), sau này là Phó Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Quân khu Côn Minh.
Một chi tiết thú vị: 29 năm sau, con trai Điền Đại Bang là Điền Vân Tường cũng lại đặt chân lên lãnh thổ Bắc Việt, chỉ khác ở chỗ cương vị hoàn toàn tương phản. Tường là Trung đội trưởng trong Trung đoàn 119 (đơn vị cũ của người cha), bị trọng thương khi xâm phạm biên giới, được trực thăng đưa về Bệnh viện Côn Minh cấp cứu, mất 7 ngày sau mới thoát cơn hôn mê. Chẳng biết tâm tình cha con nhà họ lúc ấy thể nào.
[10] Về thịnh tình của Minh dành cho Canh, xem thêm:
Bình luận về bài viết này