Tự ngàn xưa, Giao Chỉ là chốn bùn lầy nước đọng. Đây là mảnh đất thuộc nước Tàu, được họ dùng để đày ải bọn lưu manh tội phạm. Nên hễ khi người Việt nhắc đến Tổ quốc [đất nước của tổ tiên] thì chính là nói bụm đất từ giáp giới Vân Nam tới Thanh Hóa bị ám chướng đóng rêu tụ cặn nghìn năm này; và khi họ gọi tổ tiên thì là nhắc tới bọn Tàu du thủ du thực bị đày ải kia.
Giao Chỉ lúc đầu là quận huyện của Tàu, sau thoát ra giành “độc lập”, được hưởng quy chế chư hầu. Giữa Giao Chỉ với Trung Nguyên là dãy Thập vạn đại sơn khắc nghiệt, đã tách biệt Giao Chỉ ra, khiến nơi đây thành chốn tận cùng của thế gian, gần ma giới hơn dương thế.
Thời xa xưa đó, sự buôn bán giữa hai bên Hoa-Việt chỉ là trao đổi những hàng hóa vật phẩm nơi biên giới lèo tèo. Ngoại trừ các sứ thần có nhiệm vụ phải đi sứ thì dân Trung Hoa hiếm ai biết có xứ gọi An Nam/Giao Chỉ trên đời. Các sứ thần chính là chiếc cầu nối, họ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe ở phương Nam như một bản thu hoạch sau chuyến đi để báo cáo lên hoàng đế.
Các sứ thần Trung Hoa khi đi sứ các nước phiên thuộc (An Nam, Nhật Bản, Cao Ly, Đại Lý, Thổ Phồn…) thường ghi lại quá trình đi sứ của mình, không chỉ về những hoạt động ngoại giao mà còn miêu tả phong tục, sinh hoạt nơi họ đến, cùng những trải nghiệm họ thu thập được. Từ bối cảnh, nội dung, và những đánh giá đó mà các tác phẩm của họ trở thành nguồn tài liệu lịch sử quan trọng.
Riêng ghi chép về An Nam của các sứ thần Trung Hoa đã có hơn 80 tác phẩm. Năm 975, Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương, chính thức nhìn nhận Giao Chỉ là chư hầu phiên thuộc chứ không còn là quận huyện của mình nữa. Từ đó cho đến hết đời Thanh (1912), Trung Hoa nhiều lần cử sứ thần sang An Nam với các mục đích khác nhau [thường là để sách phong cho các vua An Nam], những sứ thần này đã lần lượt biên soạn, để lại những tác phẩm nhật trình. Trong số đó, có những công trình quan trọng sau:
Đời Tống có Phụng sứ Nam du tập của Lý Độ.
Đời Nguyên: An Nam lục của Trương Lập Đạo, Di An Nam thư của Lý Khắc Trung, Giao châu cảo của Trần Phu, Sứ giao lục của Tiêu Thái Đăng, An Nam hành kỷ của Văn Củ, Việt Nam hành cảo của Trí Hy Thiện, Nam chinh cảo của Phó Dữ Lệ.
Đời Minh: An Nam kỷ hành tập của Trương Dĩ Ninh, Nam chinh lục của Vương Liêm, Sứ An Nam tập của Lâm Bật, Sứ giao tập của Ngô Bá Tông, Sứ giao cảo của Nhâm Hanh Thái, Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký của Huỳnh Phúc, Sứ Nam cảo của Huỳnh Gián, Sứ giao lục của Tiền Phổ, Sứ giao cảo của Lữ Hiến, Sứ giao lục của Trương Hoằng Chí, Sứ giao kỷ hành của Tôn Thừa Ân, Giao hành trích cảo của Từ Phu Viễn.
Đời Thanh: Phụng sứ An Nam nhật ký của Ngô Quang, An Nam sứ sự kỷ yếu của Lý Tiên Căn, Nhật Nam ký sự của Dương Triệu Kiệt, Sứ giao kỷ sự của Châu Xán, Hoàng Hóa thi thảo của Đặng Đình Triết, Việt Nam Trúc chi từ của Cái Hương, Việt Nam kỷ lược của Bảo Thanh.
* * *
Thời điểm An Nam thoát ly khỏi Tàu được các sử gia Việt Nam tính kể từ khi Ngô Quyền xưng vương lập nhà Ngô (939). Từ đây, bọn Tàu bị chính quốc ruồng bỏ tạo dựng giang sơn mới, hòa huyết với thổ dân bản xứ, cho ra một chủng tộc lạ lùng mà hậu duệ của họ sau này sẽ lấy làm tự hào khi khai báo trong chứng minh thư: dân tộc Kinh.
Giao thông hiểm trở đời xưa khiến việc đi lại cực kỳ gian nan, nhiệm vụ đi sứ thường được giao cho kẻ bị biếm trích để hắn lập công chuộc tội. “An Nam là chốn xa xôi hẻo lánh, sơn lam chướng khí nặng nề, đó là đất hoang dã, nơi quái nhân không ở, người hiền không đến, chỉ lo chướng khí hại đến thân” (Trương Dĩ Ninh). Thêm vào đó, khí hậu nhiệt đới ẩm thấp của An Nam cũng là nỗi ám ảnh gây nên dịch bệnh thời khí cho người phương bắc, nên đi sứ là việc xui rủi bất đắc dĩ phải nhận lấy. Phải mất nhiều công khó và tùy may rủi mới đi-về được an toàn nên các sứ thần thường ghi chép rất kỹ những điều quan sát được về phong thổ, sinh hoạt của vùng đất này.
Về canh tác, An Nam chỉ có lúa, không có lúa mì, một năm làm ba vụ lúa, tám vụ tằm tơ. Có các loại vải nhẹ mỏng, biết dệt bông và tơ lụa. Dân đã biết làm ruộng muối và chưng cất rượu gạo. Xung quanh nhà, người An Nam trồng nhiều tre, mía, dừa, để bẻ hái tư mùa. Đặc sản có voi, ngà voi, lông chim, quế, cau, ngọc trai, đồi mồi, chu sa, trầm hương, hương trầm, dầu thực vật, hồ tiêu, sừng linh dương, tê giác, hươu nai, tinh tinh, ngọc phỉ thuý, rắn, trăn…
Về thương mại-tiền tệ, hàng hóa họ trao đổi gồm tơ lụa vải vóc, lược ngà, giấy má, đồng thau, sắt… Vào thời nhà Tống, An Nam chưa đúc được tiền, toàn dùng tiền nhỏ của Trung Hoa, do các nhà buôn bên Tàu mang sang. Đời Nguyên, An Nam đã biết sử dụng tiền đồng, trong dân gian cứ 67 đồng thì ngang một lạng bạc, nhưng khi nộp vào kho bạc nhà nước thì theo quy định một lạng bạc bằng 70 đồng.
Về hành chánh, An Nam mô phỏng y hệt thể chế của Trung Hoa. Có Lục bộ với Thượng thư, Tả thị lang, Hữu thị lang. Lục khoa với các Đô cấp sự trung và Cấp sự trung. Lục tự với Tự khanh, Thiếu khanh, Tự thừa. Ty thông chính với Thông chính sứ, Thông chính phó sứ. Ngự sử đài với Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiên đô ngự sử, Đề hình, Thập tam đạo giám sát. Viễn Đông các với Đông các đại học sĩ, Đông các học sĩ. Viện Hàn lâm với Chưởng viện, Thừa chỉ, Thị giảng, Thị độc, Biên tu, Hiệu thư, Kiểm thảo. Trung thư giám với Trung thư xá nhân, Chính tự, Hoa văn. Các Ty trực thuộc Lục bộ có Lang trung, Viên ngoại lang. Ty ngoại thừa chính có Thừa chính sứ, Tham chính, Tham nghị. Ty Hiến sát có Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ. Chấp chưởng có Kinh lịch, Lục sự, Tri bạc, Suy quan, Chủ sự. Mục quan [quan cai trị địa phương] có Tri phủ, Đồng tri phủ, Tri huyện, Huyện chưởng, Tri châu, Đồng tri châu. Tại các phủ huyện có Phủ doãn, Thiếu doãn, Trị trung, Huyện úy, Thông phán. Quan võ có Ngũ phủ, Sở phủ đô đốc, Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Đồng tri, Thiên sự. Tại Điện Trực Kim Quang có hai đội/vệ là Cẩm y, Kim ngô với chức Chưởng vệ Đô chi huy sứ, Đồng tri, Thiên sự. Tam ty của Điện Thần Vũ Hiệu Lập có Đề đốc, Tham đốc, Đô kiểm điểm, Tả và Hữu kiểm điểm. Các đội/vệ ở phiên trấn thì có Tổng binh, Sứ tổng binh, Đồng tri, Thiên sự. Ty thị vệ trong nội các có Chỉ huy sứ, Đồng tri, Thiên sự. Các đội thị vệ tại ngoại có Thiên hộ, Bá hộ, Thống chế, Quản lãnh vũ úy. Các lỵ sở ở vùng biên giới có Kinh lược sứ, Kinh lược đồng tri, Thiên sự. Lại đặt theo 5 tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Sử đời nhà Minh ghi: “Phong tục của họ trọng võ, vượt tước vị gọi là Quận công, có đến hơn trăm người, dưới tước hầu thì không tính, còn quan văn chỉ nắm văn thư cố sự mà thôi”. Nói chung, phẩm trật trong quan chế An Nam rập khuôn theo người Hán, cả áo mũ cũng y chang (thậm chí trong những quà tặng của các hoàng đế Trung Hoa ban thưởng cho An Nam cũng thường có kèm những phụ liệu cho các áo mũ này).
An Nam cũng dùng hệ thống khoa cử của Trung Hoa để tuyển chọn quan lại. Chế độ khoa cử có thi Hương, thi Hội. Thi Hương tổ chức vào mùa thu các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, đỗ tam trường gọi là Sinh đồ, đỗ tứ trường gọi Cống sinh. Còn thi Hội được tổ chức vào mùa xuân các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, đỗ tứ trường khoa này được phong Đồng tiến sĩ xuất thân, đỗ ngũ trường là Tiến sĩ cập đệ. Lại có tam khôi: Đệ nhất danh, Đệ nhị danh, Đệ tam danh. Nội dung thi cử theo hai khóa kinh nghĩa và thi phú, trong đó đệ nhất trường dùng văn Tứ thư Ngũ kinh; đệ nhị trường thi văn chiếu, tế, biểu; đệ tam trường thi văn, thơ, phú; đệ tứ trường thi văn đối sách; đệ ngũ trường phải vào cung thi trước mặt quốc vương (Điện thí), và dùng văn đối sách.
Về quân đội An Nam, các sứ thần đặc biệt quan tâm: thời nhà Tống, các đô thành An Nam đều không có dân, chỉ có hàng trăm khu trại lính lợp tranh. Các phủ, sở cũng chật hẹp, trên cửa đề “Minh Đức môn”, chỉ huy và binh lính gần 3.000 người, trên trán xăm 3 chữ “Thiên tử quân”. Binh lính được cấp thóc hàng ngày, và phải tự giã gạo để ăn. Binh khí thì có cung nỏ, mộc bài, súng gỗ, súng tre, người yếu không thể sử dụng được. Đến đời Minh thì các ty và vệ nội, vệ ngoại; mỗi vệ, ty có 6 sở: trung, tiền, hữu, tả, hậu, sủng; mỗi sở có 15 đội, mỗi đội 55 người, thường 6 năm một lần chọn các tráng đinh, những người khỏe mạnh để sung vào quân ngũ, những người yếu thì cho về với dân. Những người sức khỏe thật tốt thì sung vào đội “Kiêu dũng quân” thuộc các vệ, đây là đội quân chính quy chiến đấu khi đất nước hữu sự. Sức khỏe hạng thứ (loại 2) thì sung vào “Kỳ quân ngũ”, là đội quân vận chuyển khuân vác lương thực, quân nhu, lo hậu cần. Lính phục vụ lâu trong quân ngũ có thể trở về quê cày cấy làm ăn, lo nghiệp nhà. Mỗi lần thiết triều, các vệ phải điểm danh, Kiêu dũng quân phải trực ở vệ sở. Binh lính thuộc hạng thứ (tức “kỳ quân ngũ” – lính loại 2) thì phải nộp tiền mới được về nhà, nhưng lúc hữu sự vẫn bị điều động. Một vệ được gọi là một doanh, một sở gọi là một kỳ. Khi đất nước loạn lạc, vì quân đội phân tán ra các thôn ấp, nên việc điều động quân binh rất chậm chạp, khó lòng ứng biến. Lại áp dụng chế độ quân ngũ nông thôn kiểu Phụ tử binh (cha con cùng đi lính chung một đội). Mỗi ty hành chính bố trí một viên quan võ cai quản binh lính, mỗi phủ có một Phó đô tướng, ở huyện, châu có Phó tướng, để cai quản binh lính (bao gồm cả số dự bị bổ sung). Các châu, huyện lớn được chọn 1.000 lính tinh nhuệ tráng kiện, huyện vừa thì 800, huyện/châu nhỏ thì 600 hoặc 500. Cứ một kiện binh thì có hai lính “kỳ quân ngũ”. Khi có đánh nhau thì điều động binh lính đến mức cao nhất, nếu không có việc gì thì trả tất cả về. Nếu giặc đến biên giới thì tự bảo vệ nhau. Những vùng đất thuộc huyện, châu, nếu là nơi xung yếu thì được tăng thêm quân để trấn giữ. Với binh lính trấn giữ đô thành, cũng có chế độ đối với mới và cũ. Quân thường trực và các võ sĩ dũng mãnh đều được hưởng lương như quan lại và được giữ làm túc vệ (quân thường trực ở doanh trại). Binh lính phải dũng cảm nhanh nhẹn, thiện chiến. Đánh nhau nếu thuận lợi thì thừa thắng truy đuổi, nếu không thuận lợi thì rút về căn cứ hiểm yếu, lính giữ thành và lính cơ động đều như vậy cả.
Thời nhà Minh, các sứ thần nhận thấy đa số đô thành An Nam không có thành quách, mà chỉ quây pháo lại làm “tường thành”, rồi quân đội và dân cư sinh hoạt xen lẫn với nhau. Quân chế không có định mức, khí giới chỉ dùng hỏa pháo, đao kiếm. Xứ này coi việc có nhiều voi nhiều lính là mạnh, căn cứ theo số lượng, voi không quá 3.000, lính thì thường giữ số 10 vạn, tương truyền do Phục Ba tướng quân đặt ra lệ ấy (để khống chế không cho An Nam phát triển quân đội). Có vị sứ thần đi dọc sông quanh thành khoảng 50-60 dặm thì thấy có chiến thuyền, các chiến thuyền lúc gặp tình thế hiểm nguy thì giấu thuyền vào bờ. Những thuyền đó sơn đỏ, vàng, chuẩn bị người đầy đủ (có lẽ đó là An Nam muốn khoa trương sức mạnh với sứ thần). Lính mặc một hoặc hai áo, màu xanh, tay rộng, trời nóng thì cởi trần, không có mũ sắt. Binh khí thì có súng hỏa mai, khiên, đao… nhưng khi cần lại không có đủ để dùng. Lúc chiêu mộ binh lính, biên chế đội ngũ dựa vào luật lệ thu thuế nghề nông, cho nên phong tục của họ sinh con gái thì mừng, sinh con trai thì lo. Nam được xếp vào hạng đinh, khi số đinh đến mức quy định thì phải bị bắt vào quân ngũ, cạo tóc ở trán khoảng một tấc để phân biệt với thường dân.
Rất nhiều sứ thần đề cập đến vấn đề sử dụng chữ Hán ở An Nam. Người nước này đều dùng chữ Hán của Trung Hoa, không quen dùng chữ của các nước khác. Ngâm thơ đọc sách, đàm đạo triết lý, sáng tác văn chương đều mô phỏng Trung quốc, chỉ có phát âm hơi khác, lạ tai. Họ còn sáng tạo thêm một số chữ, phần lớn thêm bộ thổ ở bên trái, nhưng trên các văn thư trao đổi với sứ thần thì không dùng những chữ đó (đây là nói về chữ Nôm của Việt Nam). Theo sử sách đời Tống, An Nam chưa làm được giấy bút, thường phải qua đất Quảng Tây, Quảng Đông để mua giấy, bút và các đồ dùng văn phòng khác. Thư pháp An Nam theo kiểu tống thể, cách viết của mọi người đều giống nhau, rất khó phân biệt đẹp xấu. Người nước họ học chữ đều học theo cách ghép bộ thành một chữ, cách khác nữa là tách nét từng chữ, nên nét chữ họ không có gì khác nhau. Khi viết chữ, họ ngồi bệt và mọp xuống chiếu, hai cổ tay không tỳ chạm chiếu, tay trái giữ giấy, tay phải cầm bút, tuy lúc thi “xạ sách” ở triều đình (“xạ sách” là môn thi thí sinh phải viết đáp án cho một vấn đề) phải viết kiểu chữ Khải (chữ chân phương) rõ ràng, nếu không thì rất khó mà vượt trội.
Về trường học An Nam, ở kinh đô có Quốc tử giám, với các chức quan Tế tửu, Tư nghiệp, Tiến sĩ thông thạo ngũ kinh, Giáo thụ để dạy các Cống sinh. Lại có Sùng văn quán, Tú lâm cục, với chức Hàn lâm kiêm Chưởng quan để giảng dạy cho nho sinh vốn là con em các quan lại. Tại các phủ thiết lập Văn miếu, có các chức Huấn đạo để dạy các sinh đồ. Hễ là con em của dân thường, cứ đủ 8 tuổi là vào tiểu học, 15 tuổi vào đại học. Về nội dung học tập, kẻ sĩ đi học, phần lớn vẫn là “cương giám”, “tính lý”, “tam cang ngũ thường”, cùng với “chính tâm”, “tu tề trị bình”, văn chương lễ nhạc, tất cả đều phải học đủ.
Về tình hình đời sống của dân An Nam thời đó, những ghi chép của sứ thần nhà Minh cho biết: “Họ sống chung chạ, ít hiểu biết lễ nghi, tính nết thô bạo, thích đánh nhau, trọng giàu, khinh nghèo. Phong tục sống chung chạ. Có người cắt tóc, có người búi tóc, môi đỏ răng đen, đi chân đất, xăm vẽ đầy mình. Ưa tắm lúc nóng nực nên giỏi bơi thuyền lội nước”. Về trang phục, Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương có làm thơ miêu tả: “Người dân coi việc đi chân đất là lệ làng, cạo tóc và vận áo quần như thầy tu nơi hoang dã”. Những ghi chép đời Thanh còn nói rõ: “Tóc họ để đuôi dài sau lưng, được chải bằng sáp nên không bị tơi xõa. Chân đi đất, họ coi đất như là cát sạch vậy. Áo của con trai, con gái, đàn ông, đàn bà đều không có cổ đứng, khó phân biệt, không có quần váy, con gái mặc váy thùng, không gấp nếp, vua và quan thì đi tất che đến đầu gối nhưng họ vẫn có vẻ không ưa lắm. Các phu kiệu cầm lọng quạt của nhà vua chỉ được quấn vải từ mông đến rốn [tức đóng khố], mùa đông cũng không có áo”.
Về kiến trúc, chỉ nhà vua mới được dùng ngói màu vàng, quan và dân không được dùng ngói, mà chỉ được lợp tranh, cỏ. Cột, kèo bằng tre, mái hiên nhà chỉ cho phép cao 4 thước (1 thước Tàu = 0,23m), cửa cao không được quá 3 thước, phải cúi đầu khom lưng mới vào được, ngay cả cửa ở cung vua An Nam cũng không được cao quá mười thước ta (có lẽ nhờ vậy mà người An Nam luôn có thói quen luồn cúi khúm núm chăng?)
Về các đồ gia dụng thì ở An Nam chỉ nhà giàu có mới có giường và nệm, dân thường không có. Những người sang trọng quý phái thì đi cáng do hai người khiêng. Hạng đại quý tộc thì có kiệu giống như xe, lên kiệu rồi thì ngồi xếp bằng, có 4-8 người khiêng. Họ không có bàn ghế, toàn trải chiếu để làm bàn ghế. Riêng với các sứ thần, họ làm cho ghế ngồi vừa cao vừa rộng. Bàn yến tiệc của họ hình tròn, sơn son thiếp vàng, chỉ được phép cao khoảng một thước [tức hơn hai tấc], được chạm viền cánh hoa xung quanh.
Phong tục tập quán của An Nam dâm đãng, không biết xấu hổ, khi tắm ngâm mình xuống nước, đàn ông đàn bà đều tắm truồng, đi lại, đứng ngồi không né tránh nhau, kể cả nhà quyền quý cũng thế. Họ lúc nào cũng nhai trầu, chỉ lúc ngủ mới ngừng. Răng họ nhuộm đen bóng, thấy người có răng trắng lại chê cười.
Về cưới xin: đến ngày đã định, con trai con gái tụ tập thành hàng lối, kết những quả cầu ngũ sắc, vừa hát hò vừa tung những quả cầu đó lên, gọi là “tung còn”. Con gái nhận “còn” của con trai là coi hôn sự đã định. Xem ra cách này cũng giống cách gieo tú cầu của Trung Hoa vậy.
Địa vị xã hội của người phụ nữ An Nam thời xưa tương đối cao. Trong quan hệ hôn nhân, nam giới là được nữ giới cưới về, chính là lấy người. Nữ giới lấy chồng nếu không có của hồi môn cho nhà trai thì là hèn hạ, vô tích sự. Khi đẻ con trai thì vợ mới phải theo về nhà chồng, nếu đẻ con gái thì ở lại nhà cha mẹ đẻ, vì thời đó con gái quý hơn con trai. Việc buôn bán phụ nữ được xem là thường tình, các nhà quuyền quý thường ra chợ để mua bán con gái. Tuy không phải phiên chợ, nhưng hàng nghìn con gái vẫn được mang ra bán hàng ngày. Các sứ thần còn nhận xét rất tỉ mỉ: Hai châu Hoan-Diễn (tức đất Nghệ An ngày nay) văn học phát triển, hai châu Giao-Ái (đồng bằng Bắc bộ và Thanh Hóa) thì nhiều người hào phóng, so với các nơi khác cũng đặc biệt hơn.
* * *
Kể từ khi Giao Chỉ lập quốc, người Trung Hoa sang đây dần nhiều hơn, do nhiều nguyên nhân, một số họ đã định cư lại. Đời Tống, sau khi An Nam thoát ly không lâu, do người bản xứ ở đây không thạo văn tự (chữ Hán), nên khi những nhà buôn từ Phúc Kiến đến, các quan muốn giải quyết công việc, trên các văn bản đều chìu theo ý khách đề xuất. Lại có cả những người Tàu có tay nghề, tài năng, những nhà sư, đạo sĩ, các nhà kỹ thuật và tôi tớ của họ trốn sang An Nam rất nhiều. Được các nhà đương cục An Nam trọng đãi, họ đã lưu lại định cư và phục vụ cho chính quyền. Nhưng cũng có số ít là bị bán sang An Nam làm nô tì. Một số lữ khách ở vùng Nam Châu dụ dỗ người ta đi lập nghiệp, nhưng đến châu động (từ thời Đinh Bộ Lĩnh đã chia Giao Chỉ làm 10 đạo, dưới các đạo là châu, động; “châu động” ở đây là nói các vùng biên viễn hẻo lánh) thì trói lại và đem bán, giao cho người châu động, lấy hai lạng vàng, nếu người bị bán có tài nghệ hoặc biết chữ nghĩa giỏi văn chương thì được tăng thêm tiền. Bị bịt mắt trói tay lùa đi, những người bị bán này không biết đường về. Đến địa điểm thì người bị bán được giao cho người mua và phải làm tôi tớ suốt đời, bị xăm chữ lên trán, phụ nữ thì bị xăm vào vú, bị quản thúc chặt chẽ để đề phòng họ trốn. Người Tàu di cư sang An Nam ngày càng nhiều, vào thời loạn lạc đời nhà Minh, số người lưu lạc sang ngụ cư An Nam đã có đến hàng triệu. Và hậu duệ bọn đó chính là sắc dân có gen nổi trội hơn, đã thống trị An Nam này.
_______
Phải chăng vì là phiên bản lỗi của Trung Hoa, nên sâu thẳm trong tâm thức dân An Nam luôn mang sẵn mối hờn căm đố kỵ đối với nguyên bản đẹp đẽ, tuy gần giống hệt nhưng lại hoàn chỉnh hơn mình, mối tự ti đau đớn hành hạ cả một dân tộc này biết chừng nào nguôi?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– An Nam lục – Trương Lập Đạo;
– An Nam kỷ hành tập – Trương Dĩ Ninh;
– Thù vực châu tư lục – Nghiêm Tòng Giản;
– Việt Nam kỷ lược – Bảo Thanh;
cùng các tài liệu liên quan của Học viện Quan hệ quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh và của Quốc sử quán Đài Bắc.
Văn vẻ như l** thằng tàu khựa