Vua Gia Long, theo ý riêng tôi, là bậc chân mạng đế vương. Vị vua có diễm phúc hơn tất cả các vì vua trong sử nước Nam, vì trong tay ông có toàn những danh tướng kinh luân toàn tài: Lê Văn Duyệt, Đỗ Thành Nhân, Nguyễn Văn Thành v.v…
Về võ công và tài kinh bang tế thế của những bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, anh Google đã nói đến nhiều. Ở đây, tôi chỉ xin giới thiệu văn tài của Tiền quân Nguyễn Văn Thành, qua bài “Văn tế Trận Vong Tướng Sĩ”. Đây là một áng văn bi hùng đệ nhất trong nền văn học chữ Nôm, giá trị nghệ thuật của nó hơn hẳn bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, nhưng không hiểu vì lý do gì mà bài của Nguyễn Đình Chiểu thì được trân trọng đưa vào sách giáo khoa, còn bài của Nguyễn Văn Thành thì lại ít người biết đến.
Tôi xin chép ra đây bài văn tế của Tiền quân mà tôi thuộc lòng từ nhỏ, hình như là in trong giáo trình Đại học Văn khoa của Sài Gòn xưa. Các chú thích trong bài cũng là dựa theo tài liệu mà tôi đã học thuộc ấy. Nếu có chỗ nào sơ sót, mong các bậc thức giả gần xa vui lòng chỉ điểm cho. Xin đa tạ!
________
Tiểu dẫn: Năm Nhâm tuất (1802), Gia Long bình định xong Bắc hà, triệu Tiền quân Quận công Nguyễn Văn Thành ở Qui Nhơn ra, phong làm Tổng trấn Bắc thành. Nguyễn Văn Thành tổ chức một lễ truy điệu các tướng sĩ đã bỏ mình nơi trận mạc, ông viết bài “Văn tế Trận Vong Tướng Sĩ” này để đọc trong buổi lễ ấy. “Lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, thật là một áng văn văn chương Quốc âm tuyệt bút” (theo lời Dương Quảng Hàm).
* * * * * * *
Than ôi!
Trời Đông Phố (1) vận ra Sóc Cảnh (2), trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
Nước Lô Hà (3) chảy xuống Lương Giang (4), nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ.
Đã hay sinh là ký mà tử là qui;
Mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
Xót thay!
Tình dưới viên mao (5);
Phận trong giới trụ (6).
Ba nghìn họp con em đất Bái (7), cung tên ngang dọc chí nam nhi;
Hai trăm vây bờ cõi non Kỳ (8), cơm áo nặng dày ơn cựu chủ.
Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ!
Kẻ thời theo cơ đích (9) chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây (10) thề chẳng đội trời chung;
Kẻ thời đón việt mao (11) trở lại chốn sơ cơ, dập dìu vén cánh giương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.
Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.
Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên, về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận (12), đã mấy buổi sơn phong hải lễ (13), trời Cao Quang (14) soi khắp tấm kiên trinh;
Rồi lại từ Đồ Bàn (15), Nam Ngãi (16), lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê (17), đất Lũng Thục (18) lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy gẫm lại cũng cơ duyên;
Trường chiến đấu biết đâu là mệnh số?
Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.
Ruổi rong trăm trận áng cương thường;
Rải rác mấy người nơi đạo lộ.
Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc (19), mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trơi, soi chừng cổ độ (20).
Ôi!
Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu (21);
Nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ.
Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu (22) xem nửa phút như không, ơn dày đội cũng cam trong phế phủ (23).
Phận dầu không gác khói đài mây (24);
Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.
Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường (25);
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ (26).
Tình xưa lai láng buổi tà ô;
Dấu cũ ngậm ngùi nơi dạ thổ.
Vâng Thượng đức hồi loan (27) tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng-Thuận-Nghệ-Thanh (28) cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
Mà những người từng thượng trận ngày xưa, rắp tấu công từ Ngọ-Vị-Thân-Dậu (29) tới giờ, treo tính tự để nằm trong lá sổ.
Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
Nhịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ.
Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, nghìn năm một hội tao phùng, phận thủy có, phận chung sao chẳng có?
Bản chức nay:
Vâng việc biên phòng;
Chạnh niềm viễn thú (30).
Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rỡ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu (31) vung trước gió.
Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
Nền phủ định (32) tới đây còn xốc nổi (33), vụ lòng một lễ, chén rựợu thoi vàng (34);
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.
Có cảm thông thời tới đó khuyên mời;
Dầu linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.
Buổi chinh chiến hoặc là oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu chương (35) cho;
Hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già mẹ yếu, vợ góa con côi, an tập (36) hết cũng ban tồn tuất (37) đủ.
Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang Vũ.
Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân;
Niềm tôn thân (38) dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều, cho bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chẳng dời ngôi bảo tộ (39).
Thượng hưởng!
_______
Chú thích:
(1) Đông Phố: tên cũ của thành Gia Định.
(2) Sóc Cảnh: tức cõi Bắc hà, chỉ thành Hà Nội.
(3) Lô hà: tức sông Lô, một nhánh của sông Nhị, chảy qua Tuyên Quang.
(4) Lương Giang: tức sông Phú Lương, sau đổi tên thành sông Nhị, rồi sông Hồng.
(5) Viên mao: Viên đây là “viên môn”. Cửa dinh đại tướng thời xưa thường có hình tròn, nên gọi “viên môn”; “Mao” là “tiết mao”, tức lá cờ để truyền hiệu lệnh. “Viên mao” ý nói hàng đại tướng.
(6) Giới trụ: Áo giáp và mũ trụ của tướng sĩ.
(7) Đất Bái: Nơi Hán Cao tổ khởi nghiệp, lúc dấy binh được 3.000 người.
(8) Non Kỳ: Tức Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, Trung Hoa. Là nơi địa thế hiểm trở, chỉ cần 200 người có thể địch lại 2.000 quân, là nơi Chu Văn Vương sáng nghiệp.
(9) Cơ đích: Bậc chân chúa, chỉ vua Gia Long.
(10) Non Tây: chỉ giặc Tây Sơn.
(11) Việt mao: Phủ việt và tiết mao, dùng để làm hiệu lệnh trong quân.
(12) Khánh Hòa và Bình Thuận.
(13) Sơn phong là gió núi: chỉ việc Nguyễn Ánh khi xưa bị quân Tây Sơn bao vây ở Phú Quốc, nhờ trời nổi cơn bão to nhận chìm thuyền giặc khiến Nguyễn Ánh thoát nạn. Hải lễ là nước ngọt ngoài bể: Nguyễn Ánh khi chạy trốn ngoài bể, hết nước uống, mới khấn trời, thì phát hiện có giòng nước ngọt. “Sơn phong hải lễ” đây là kể lại những gian nguy đã trải.
(14) Cao Quang: Cao Tổ và Quang Vũ, hai ông vua có công khởi nghiệp và trung hưng nhà Hán.
(15) Đồ Bàn: Kinh đô Chiêm Thành khi xưa, nay là Bình Định.
(16) Nam Ngãi: Quảng Nam và Quảng Ngãi.
(17) Vũ pháo vân thê: Đạn bắn như mưa, thang cao lên đến tầng mây, chỉ việc xông pha trận mạc.
(18) Lũng Thục: Đất Lũng Tây (tỉnh Thiểm Tây) và đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên), hai nơi hiểm trở của Trung Hoa.
(19) Minh mạc: Chỗ tối tăm mờ mịt.
(20) Cổ độ: Bến đò ngày xưa.
(21) Đoản tu: Ngắn dài.
(22) Bạch câu: chỉ đời người ngắn ngủi.
(23) Phế phủ: Phỗi và tạng phủ.
(24) Gác khói: Tức Lăng Yên Các, chỗ Đường Thái tông Lý Thế Dân cho vẽ hình 24 vị công thần. Đài mây: Tức Vân Đài, nơi Hán Minh Đế cho treo tranh công thần. “Gác khói đài mây” là thành ngữ chỉ sự suy tôn công lao các vị công thần.
(25) Cân thường: Là lá cờ để thêu tên các tướng sĩ có công trận.
(26) Vũ lộ: Mưa móc, chỉ ơn vua.
(27) Hồi loan: Xe loan (tức xa giá nhà vua) trở về.
(28) Quảng – Thuận – Nghệ – Thanh: Là 4 tỉnh Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi), và các tỉnh Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa.
(29) Thân, Vị, Ngọ, Dậu: Tức các năm 1798, 1799, 1800, 1801.
(30) Viễn thú: Tuần thú trấn thủ ở phương xa.
(31) Tấm cừu: Tức áo lông cừu để mặc cho ấm.
(32) Nền phủ định: Do chữ “can qua phủ định”, là việc đánh dẹp giặc giã vừa yên.
(33) Xốc nổi: Nông nổi lôi thôi.
(34) Nén bạc thoi vàng: Giấy vàng mã cuốn tròn giả làm thoi vàng để dùng trong cúng tế.
(35) Biểu chương: Tờ trình để tâu lên vua.
(36) An tập: Vỗ về, cho được yên ổn nơi ăn chốn ở.
(37) Tồn tuất: Tiền của để trợ cấp cho vợ con tử sĩ.
(38) Tôn thân: Tôn kính, thân yêu, chỉ tình cảm giữa kẻ còn người mất.
(39) Bảo tộ: Phước báu, chỉ ngôi vua.
để lúc nào đọc lại Văn tế nghĩa sỹ Cần giuộc và phải đọc kỹ bài này vì văn cổ, hiểu được không dễ..nhưng theo tôi thì có thể do lý do tuyên truyền..bài của cụ Đồ Chiểu có khả năng hợp với cái thời người ta soạn sách giáo khoa…
O điểm phát trúng ngay trọng huyệt rồi, thì lý do là vì sách giáo khoa kiêm chức năng tài liệu tuyên truyền chớ đâu hè!
hay là tui chuyển sang ngành châm cứu Cụ Ly hè!?
Nói thêm với Cụ Ly, sau này đọc lác đác một ít văn chương trước 1975 ở Miền nhà Cụ mới thấy tiếc cả một thời tuổi trẻ đã lãng phí không được đọc những áng văn thơ hay như thế!
Văn học trong Nam không có tính đảng, nên nó lưu được chất người. Nó không có tính thời sự, nên nó còn hoài với tháng năm. Nó không có nhiệt huyết của khẩu hiệu, nên nó chạm tới tâm tình người thưởng ngoạn, O Hà Linh!
Răng Cụ Ly chỉ có nói đúng và rất đúng thôi hè!
Tôi nghĩ Cụ Ly và các Cụ đã rất may mắn có được một thời ngọt ngào như thế!
Cụ Ly rập đầu cảm tạ O đã… gato, he he!
Sách Sử nhà Sản không ưa vua Gia Long, gọi ông là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”, nên phần đông thế hệ anh em ta làm gì mà được học bài văn tế này. Cám ơn lão Ly đã giới thiệu.
Thế theo Thông Reo thì tại sao nhà sản lại tỏ ra căm ghét Gia Long nói riêng, và nhà Nguyễn nói chung nào?
Tui thì tui cho rằng bởi vì ân oán dây dưa he he, Gia Long diệt Tây Sơn, mà Tây Sơn là ai? Truy ra gốc gác gác thì đó là hậu duệ của Hồ Quý Ly (một người gốc Tàu, chứng cớ là khi lên ngôi, ông này đã lấy quốc hiệu là Đại Ngu, tên một tiểu chư hầu bên Trung Hoa). Rồi truy ra nữa, còn một nhánh họ Hồ khác cũng có quan hệ huyết thống, sau này lên ngôi vương bá; tuy tay này khai lý lịch họ Nguyễn, nhưng thực ra lại dòng dõi họ Hồ kia. Và vị vương có bá danh vô cùng bá đạo kia không căm nhà Nguyễn mới là lạ.
Sử sách từ đó bị cải biên lung tung lang tang để chìu ý vị tiên đế này, sau đó ngày càng sa lầy vào chính vũng bùn mình đã quấy đục, hỡi ôi!
Không nghĩ được ra chuyện nhà Hồ như lão Ly. Sư huynh nghĩ sâu, nghĩ xa quá sức! Cứ tưởng lão Đờ thích Tây Sơn vì áo vải, cờ đào, hợp với cái nhãn công nông, và lá cờ đóng đinh, cắt cỏ của lão.
Nghe nói nhà Trần cũng có tổ tiên nhiều đời ở bên Tàu, nhưng có ai đánh Tàu oai hùng bằng nhà Trần không?
Thật sự thời Gia Long, Minh Mạng, nước Việt nam hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Còn dám nói vua Gia Long cõng rắn cắn gà nhà, ui cha, sao mà nghe thấy nhột!
Trước 1975, ở miền Nam sử sách vinh danh cả vua Quang Trung, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, cũng ngang bằng vua Gia Long, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Phan Thanh Giản … Như vậy mới công bằng, vì các vị đều là những đấng anh hùng lỗi lạc cả. Có đâu như lối định hướng lịch sử của nhà Sản.
Càng nghĩ càng thấy tiếc cho đất nước, thương cho thế hệ của mình quá đi!
Thông Reo, lịch sử còn nhiều cái phải lật lại. Nhà Trần, theo Ly, phải chịu trách nhiệm về việc ba lần Nguyên Mông sang đánh nước ta. Lão Thông nhầm đánh Nguyên thành “đánh Tàu” chăng? Nhưng chỗ lão nhầm lại thành chỗ… đúng: quân đánh ta thuở ấy chính là quân Tàu ở Lưỡng Quảng, do tướng Nguyên chỉ huy, sang đánh ta. Thông Reo thử tra tài liệu nước ngoài về Nguyên Mông xem có trận chiến nào với Đại Việt không, tôi cũng đang tra Nguyên sử, để đối chiếu với mấy bộ sử Việt đó!
Về Quang Trung, nếu chịu khó tra tiếng Bồ, tiếng Pháp, sẽ thấy mấy anh em Hồ Thơm thực ra là anh hùng hay thổ phĩ. Dịp nào đó ta cùng thảo luận trao đổi thêm.
Lịch sử mà chúng ta từng học, đừng nói của nhà sản, mà cả trước kia đều là sự dối trá, hỡi ôi!
Bác có thể nói rõ hơn về ý này không?
Nhà Trần, theo Ly, phải chịu trách nhiệm về việc ba lần Nguyên Mông sang đánh nước ta….
Theo Nguyên sử, ban đầu họ chỉ là cánh quân không đến ngàn người, muốn mượn đường tiễu trừ bọn cướp biển Xiêm La thường quấy phá vùng biển của họ. Vua tôi nhà Trần sính cường, chặt đầu sứ giả, rồi kích động lòng dân Giao Chỉ đòi quyết chiến đến cùng, mới sinh ra nông nỗi.
Nói thêm, sử ta ghi, cả 3 lần đánh Nguyên, ta đều thắng nhờ dùng kế “vườn không nhà trống”, Reo thấy luận điệu có giống kiểu “tiêu thổ khách chiến” không? Kháng Nguyên, bằng cách vua tôi dắt díu chạy bỏ cả kinh thành, mặc cho bá tánh bị giặc dày xéo. Và sau đó, vì người phương bắc không quen thung thổ nên bị bệnh, phải rút quân, thì nhà Trần tuyên bố chiến thắng ngoại xâm. Những trận đánh vang danh Bạch Đằng, Như Nguyệt đều là không có thật.
Những điều Ly chia sẻ đây sẽ khiến nhiều người giãy nãy lên, he he, Ly không thích Reo sẽ tin những điều ấy đâu, mà chỉ mong Reo kiểm chứng giúp, xem giữa sử ta và sử Nguyên, bên nào sát với sự thật hơn.
Sử Trung quốc bây giờ cũng nói rằng cuộc chiến xâm lược của họ năm 1979 là “phản kích tự vệ”.
Liệu Nguyên sử có đáng tin không? Đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh, không thắng nổi nước Đại Việt nhỏ xíu, viết thật thì tự ái nước lớn, có viết tránh ra thì cũng không có gì lạ. Dại gì lại đem trận Bạch đằng vào cho xấu mặt?
Còn trận Như nguyệt là của Lý Thường Kiệt đại phá quân Tống, lão Ly ạ!
Gớm khổ, Reo cứ nói những điều đó làm gì, những cái mà chúng ta đã thuộc lòng, giờ phải quên đi, để lấy tâm thức khác, khách quan, không để “tự hào dân tộc” là cái người ta thường rêu rao sáo rỗng, để tìm những cứ liệu mới.
Ly tìm trong sách Tàu, Reo tìm trong sách Tây, rồi ta đối chiếu với nhau. Ly cũng có tin và bảo đảm rằng Nguyên sử chép đúng đâu (nhưng có một điều phải thú nhận rằng lối viết sử của họ khoa học và nghiêm ngặt hơn của ta, vd: chỉ ghi sự kiện, không bình phẩm).
Ai cứu tôi với, mong rằng cha nội này hiểu ý tôi! 😥
Các nhà nghiên cứu Sử Âu Mỹ đa số công nhận nhà Nguyên thất bại 3 lần chinh phục Đại Việt, cũng như 3 lần thất bại chinh phục Nhật bản, và cả ở Miến Điện nữa cụ Ly ạ!
Cảm ơn lão, Réo! 🙂
Cảm ơn lão Lý trưng ra của hiếm.
Còn rất nhiều di sản quí báu bị rẻ rúng đang chờ những người có chữ như lão và các bậc thức giả khác tìm tòi, phổ quát và gìn giữ, không thì mất hết. Đừng trông chờ gì ở thằng chính quyền.
qx
Ui, tui tưởng lão Qx phải từng biết qua bài này chớ! Tiếc là tui cứ lười biếng, lần lữa hoài nên đến nay vẫn chưa chia sẻ được gì về tàng thư cổ tịch nhà Nguyễn, lão ơi!
Anh Ly ơi. Bài này Văn Tế này của Nguyễn Huy Lượng, bị gán cho Nguyễn Văn Thành.