Chu Nguyên Chương sau khi đánh đuổi Nguyên Mông, thành lập nhà Minh – triều đại cuối cùng của Hán tộc ở Trung Hoa – đã cho soạn sách ghi lại những điều dặn dò con cháu; “những nước man di không được chinh phạt” là một trong những dặn dò ấy.
“Bất chinh chi quốc” được sử sách An Nam (Bắc Việt) dẫn ra như minh chứng dã tâm xâm lược, bỏ ngoài tai tổ huấn của các vua Minh sau này. Nhưng cách sử gia An Nam dẫn chứng bất thường ở chỗ không liệt kê danh sách 15 di quốc kia, mà chỉ ghi vỏn vẹn một dòng: “An Nam đứng đầu trong các nước phía Tây Nam [củaTrung Hoa]”. Đây vốn thủ pháp dối trá tinh vi, là thiện nghệ của các sử gia Bắc Việt nhằm tự thổi phồng nước mình và khỏa lấp sự thật.
Hoàng Minh tổ huấn
Chu Nguyên Chương từng đích thân soạn sách để dặn dò con cháu đời sau. Sách này hoàn thành vào niên hiệu Hồng Võ 6 (1373), gọi là Tổ huấn lục. Đến 1395, Chương lại cho tu chỉnh và đổi tên thành Hoàng Minh tổ huấn, hiện còn tàng bản ở các thư viện của Trung Hoa đại lục, Đài Loan và Nhật Bản.
“Tổ huấn” tuy đã cổ hủ song cũng có những độc đáo riêng, xin tóm tắt ra đây. Sách gồm 13 chương:
Chương đầu (Thủ chương) là những lời răn tổng quát: cấm dùng khốc hình, cấm lập tể tướng, cách xử trí hoàng thân quốc thích phạm pháp, phương châm ngoại giao (“Bất chinh chi quốc” thuộc phần này), những điều cần chú ý trong phép làm vua, những điều các thân vương cần tuân thủ.
Chương 2 là những giới luật hoàng đế cần trì giữ: lánh xa bọn xướng ca múa hát, giữ trật tự phép tắc cho nội cung, không được thiên kiến, siêng năng việc nước.
Chương 3 là những nghi lễ trai tịnh bái tế trời đất, tôn miếu, xã tắc cùng các vua đời trước và Khổng tử.
Chương 4 là những đối sách của hoàng đế khi gặp những điềm dữ trước và trong khi xuất hành tuần du.
Chương 5 nói về quốc chính: hoàng đế không được thiên kiến chỉ nghe một bên, phải để bá quan lớn nhỏ đều được ngự tiền bẩm tấu; cấm chỉ từ quan đến dân không ai được phép dâng tấu tán dương đại thần.
Chương 6 nói về lễ nghi trong đạo vua tôi: những vấn đề trong mối tương quan giữa hoàng đế với các thân vương; nhiệm vụ của thân vương mỗi khi hoàng đế cúng tế xã tắc, tông miếu; các nghi thức của phủ thân vương khi mừng năm mới hoặc chúc thọ hoàng đế; nghi thức của phủ thân vương khi tiếp chỉ; triều thần mỗi khi có việc đi ngang phủ thân vương đều phải làm lễ bốn vái, ai cố tình đi tắt hoặc đi vòng để tránh sẽ bị xử trảm; các quy định khi văn võ bá quan bái kiến thân vương; các quy tắc xưng hô của hoàng thân quốc thích khi dâng biểu chúc mừng; các quy định thân vương phải tuân thủ khi vào triều diện thánh; quy định đặt tên cho con cháu đời sau (mỗi chi 20 chữ, mỗi chữ đặt cho một đời).
Chương 7 quy định về pháp luật: những hình phạt cho hoàng tộc nếu phạm lỗi; quy chế kim phù của triều đình khi tuyên triệu thân vương; bổn phận của các quan văn võ đối với thân vương; cách xử trị khi thường dân khinh mạn thân vương, hoặc quan thần vu cáo thân vương, gian thần xâm chiếm phủ đệ thân vương; phương thức xử lý khi thân vương phạm trọng tội; không đồ sát thần dân khi họ phạm tội; thân vương không được kết giao với hạng thứ dân, không được tiếp nhận đơn từ cáo trạng của dân chúng; sứ giả triều đình khi truyền đạt thông điệp cho thân vương nếu có lời lẽ không hợp đạo lý sẽ mang tội ly gián; khi tân thiên tử đăng cơ, các thân vương chỉ được dâng biểu chúc mừng, không được phép vào triều trong vòng 3 năm và phải chuyên tâm cẩn trọng phòng giữ biên cương. Nếu như tân nội các tuân thủ lời dạy của tổ tiên, triều đình nên thịnh trị thì sau 3 năm, thân vương được vào chầu theo lệ cũ. Như tân nội các bị gian thần thao túng, triều đình không kẻ trung lương, thiên tử sẽ hạ mật chiếu cho các thân vương dẫn quân về trị tội kẻ gian. Khi hoàng đế không có hoàng tử, ngôi vị sẽ được truyền cho em mình theo nguyên tắc đích mẫu (mẹ dòng đích), mẹ thứ dù sinh con trưởng cũng không được lập. Phải luôn kiểm tra quân số, không để xảy ra đào ngũ.
Chương 8, những quy định cho nội cung: các chi tiêu của hoàng hậu và phi tần đều phải có sổ sách báo cáo rõ ràng; hậu phi không được liên hệ bên ngoài, không được can dự triều chính; những cung nhân phụng vụ hoàng đế và thân vương đều phải tuyển chọn con cái nhà lành, không tiếp nhận thị nữ do đại thần dâng lên, càng không được gần gũi ca kỹ.
Chương 9: quan chế nội cung. Quan chức, phẩm trật, danh xưng các quan chức trên dưới trong hoàng cung. Thiết chế quan chức phẩm trật ở các phủ thái tử, công chúa và vương phủ.
Chương 10: những quy chế cho quan chức. Những tiêu chuẩn về sách phong, ấn tín, chiếu lệnh khi phong tước. Những danh xưng phong hiệu cho trai gái hoàng tộc. Hệ thống Tôn nhân phủ (cơ quan quản lý hoàng tộc). Quy chế điều động quan viên của phủ thân vương. Quy chế phẩm trật các quan chức cấp thấp trong vương phủ. Quy chế phẩm trật của Ty Chỉ huy sứ (cơ quan chưởng quản quân đội các tỉnh thành).
Chương 11: binh vệ[1]. Hạn chế số lượng quân lính hộ vệ vương phủ. Thân vương về chầu, vương tử phải thay thế trông nom việc biên phòng nghiêm túc đúng theo nghi trượng. Triều đình muốn điều binh phải có văn thư tống đạt cho thân vương và quan viên các trấn, các quan viên phải có lệnh của thân vương mới được phát binh. Các quy định về mối tương quan giữa quân trấn thủ và quân hộ vệ trong nước. Thân vương có thể huấn luyện binh sĩ, không hạn chế số lần đích thân thao luyện mỗi tháng. Các quy định cụ thể nghi trượng dành cho thân vương.
Chương 12: tu bổ phủ đệ. Cung thất của thân vương phải thiết kế đúng quy cách, không được vượt chuẩn; nếu con cháu đời sau đông đúc, có thể xây đựng thêm. Vị trí các đất dành phong tặng thân vương. Hoàng đế, thân vương đều không được xây dựng hành cung, biệt điện, đài tạ để du ngoạn phương xa.
Chương 13: cung đốn. Bổng lộc của thân vương do chính quyền sở tại cung cấp vào cuối mỗi tháng 10 hàng năm. Quy định cụ thể bổng lộc cho các cấp trong hoàng tộc. Khi vương tử kế thừa vương vị, bổng lộc đời trước phải cắt đi một nửa[2].
* * *
Bất chinh chư di quốc
Sau khi lật đổ nhà Nguyên, triều Minh buộc phải chủ trương hòa hiếu với các lân bang để tập trung binh lực đồn trú biên cương phòng ngừa Mông Cổ quật khởi phản kích. Lại thêm lúc đó “con đường tơ lụa” của Trung Hoa thông thương với các nước cũng bị Đế quốc Timurid cắt đứt. Tình hình buộc Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương phải mở thêm các Thị bạc ty[1] ở Minh Châu (nay là thành phố Ninh Ba tỉnh Chiết Giang), Tuyền Châu (thành phố Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến), và Quảng Châu (thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông) để thúc đẩy mậu dịch với lân bang[3].
Muốn phát triển kinh tế tất phải hạn chế binh đao, Chương dặn dò cụ thể: “Man di bốn phía đều cách tuyệt biển rộng núi cao, ở nơi hẻo lánh; dù chiếm được đất cũng không đủ nguồn cung cấp, quản được dân cũng không đủ sai khiến. Nếu để họ không màng cân nhắc tự lượng mà quấy nhiễu biên cương là điều đáng ngại. Họ đã không phải mối họa cho Trung quốc mà ta lại hưng binh chinh phạt thì càng chẳng lành. Ta e con cháu ỷ nước mình giàu mạnh, tham chiến công nhất thời mà vô cớ động binh, làm tổn thương sinh mạng nên phải nhắc nhở, tuyệt không được quên. Riêng rợ Hồ ở sát biên cương Tây Bắc nhiều đời gây hấn, cần phải luyện binh đề phòng cẩn thận”[4].
Danh sách “Bất chinh chi quốc” gồm 15 nước:
Đông Bắc: Triều Tiên.
Chính Đông, lệch về phía Bắc: Nhật Bản.
Chính Nam, lệch về phía Đông: Đại Lưu Cầu (vương quốc tồn tại từ thế kỷ XV-XIX, chiếm lĩnh phần lớn quần đảo Ryukyu và cực Tây đảo Okinawa thuộc Nhật Bản hiện nay), Tiểu Lưu Cầu (chiếm Tây Nam đảo Đài Loan và một phần quần đảo Ryukyu).
Tây Nam: An Nam, Chân Lạp, Xiêm La, Chiêm Thành, Tô Môn Đáp Lạt (nay là đảo Sumatra của Indonesia), Tây Dương (tức Chola, nay thuộc khu vực duyên hải Tây Nam Ấn Độ), Trảo Oa (nay là đảo Java, thuộc Indonesia), Bồn Hanh (tức Pahang, bang lớn nhất ở bán đảo Malaysia), Bách Hoa (tức Batak, nay thuộc Bali của Indonesia), Tam Phất Tề (vương quốc cổ, tồn tại từ thế kỷ VII-XIII, địa giới bao gồm bán đảo Malaysia và phần lớn quần đảo Sunda), Bột Nê (tức Brunei).
Trong danh sách trên thì Triều Tiên là nước có quan hệ tốt đẹp nhất với Minh, và Nhật Bản là nước “ngang ngạnh” nhất.
1/- Tiều Tiên: từ khi Minh triều mới kiến lập, vương triều Cao Ly đã thụ lãnh sách phong, theo lệ 3 năm triều cống 1 lần. Nhưng sau đó do xảy ra mâu thuẫn tranh chấp biên giới, vua Cao Ly giết hại sứ thần, lại điều quân chuẩn bị xâm nhập thiên triều. Đại tướng Lãnh binh Cao Ly là Lý Thành Quế (Yi Seong Gye) thừa cơ phát động binh biến phế bỏ vương triều Cao Ly, thiết lập vương triều Lý. Quế vừa lên ngôi liền phái sứ thần sang Tàu hòa giải, xin Chu Nguyên Chương ban quốc hiệu. Chương lấy tên cũ Bắc Hàn để đặt, lại tứ danh cho Quế là Đán (Dan). Đán lấy niên hiệu Hồng Võ của Chương làm niên hiệu của mình. Mối quan hệ Minh-Bắc Hàn mười phần tốt đẹp. Năm 1573, lãnh chúa (Daimyō) Nhật Bản là Phong Thần Tú Cát (Toyotomi Hideyoshi) dẫn quân đánh Bắc Hàn, Chu Dực Quân (Minh Thần tông) xuất quân tương trợ cứu vãn cơ nghiệp Lý triều. Đến khi Mãn Thanh chinh phục nhà Minh, Bắc Hàn vì lòng trung với chân chúa đã đoạn tuyệt với Thanh.
2/- Nhật Bản: Vừa mới đăng cơ, Chương đã cho sứ thần mang quốc thư sang Nhật (1368), yêu sách hai điều: triều cống và tiễu trừ hải tặc thường xuyên quấy phá duyên hải Trung Hoa. Nhật chặt đầu sứ thần để hồi đáp. Chương đùng đùng đòi phát binh phạt Nhật rồi sau lại thôi. Năm 1380, Tể tướng Hồ Duy Dung tạo phản, Chu Nguyên Chương có được chứng cớ Dung câu kết với các thế lực hải phỉ Nhật nên nổi trận lôi đình, giết hơn 1 vạn 5 ngàn người. Nhưng có lẽ do cách biệt trùng khơi, cùng nỗi ám ảnh bởi 2 lần chinh phạt Nhật Bản đều bất thành của Hốt Tất Liệt khi xưa, Chương thủy chung không hề động binh đao với Nhật, chỉ hạ lệnh đóng cửa Thị bạc ty, cấm tuyệt giao thương Trung-Nhật.
3/- Đại Lưu Cầu: lúc bấy giờ chia làm 3 tiểu vương quốc là Nam Sơn, Trung Sơn và Bắc Sơn, cả 3 đều tiến cống cho Minh. Sau, Trung Sơn nhất thống, vẫn y lệ triều cống thần phục. Các đời vua Đại Lưu Cầu đều thụ lĩnh sách phong của Minh, là phiên thuộc trung thành nên được Minh ban cho họ Thượng (尚 – được yêu chuộng, trọng vọng).
4/- Tiểu Lưu Cầu: cũng là phiên thuộc trung thành nên được Minh bảo hộ để tồn tại cùng Đại Lưu Cầu.
5/- Chân Lạp: suốt niên hiệu Hồng Võ – Vĩnh Lạc (1368-1424), Chân Lạp một lòng cẩn cẩn tiến cống thường xuyên.
6/- Xiêm La: là nước nhập cống Đại Minh bền bĩ nhất. Từ niên hiệu Hồng Võ 4 (1371) đến Sùng Trinh 6 (1643), trải hơn 270 năm không một lần lỗi hẹn. Lại nhiều lần hỗ trợ quân Minh tảo trừ hải phỉ Nhật.
7/- Chiêm Thành: Chiêm tức Trung-Nam phần Việt Nam hiện nay, là phên giậu tín cẩn của Minh; đầu niên hiệu Hồng Võ (1368) đã tiến cống xưng thần, nhưng bởi Chiêm nhiều lần xâm phạm Chân Lạp nên Chu Nguyên Chương cự tuyệt nạp cống. Mãi đến Chu Đệ đăng cơ (1402), mối quan hệ ngoại giao hai bên mới được nối lại. Khi quân Minh tru diệt An Nam, Chiêm Thành đã xuất binh hỗ trợ đắc lực.
8/- Tô Môn Đáp Lạt: Chu Đệ nhiều lần cho sứ thần mang vàng ngọc lụa là khuyến dụ Tô Môn Đáp Lạt, Thái giám Trịnh Hòa 3 lần hải hành đánh cướp (1405-1433) đều ghé lại nơi đây dâng thư giao hảo. Từ 1406, Tô Môn Đáp Lạt xin thần phục. Đến khoảng niên hiệu Thành Hóa (1465-1487), do sứ thần không có ấn tín chứng minh nên bị Minh cự tuyệt, từ đó không đến triều cống nữa.
9/- Tây Dương: tài liệu ghi chép ngoại giao giữa hai bên không nhiều. Chu Nguyên Chương và Chu Đệ đều phái sứ giả viếng thăm, vua Tây Dương cũng vài lần tiến cống đặc sản hồ tiêu.
10/- Trảo Oa: Chu Nguyên Chương vừa lên ngôi, Trảo Oa đã sai sứ sang triều cống mỗi năm 1 lần, thậm chí có năm dâng cống 3 lần. Từ 1436 thì thưa thớt dần. Năm 1499, đoàn thuyền sứ thần bị bão đánh chìm, chỉ còn 1 chiếc cập bến Quảng Đông, Chu Kiến Tuấn (Minh Hiến tôn) ban thưởng trọng hậu để an ủy. Từ đó về sau, Trảo Oa không triều cống nữa.
11/- Bồn Hanh: triều cống xưng thần ngay từ Hồng Võ nguyên niên. Trịnh Hòa ba lần “há Tây dương” đều ghé thăm. Sau khi triều Minh bị diệt cũng thôi triều cống.
12/- Bách Hoa: quốc thổ này khí hậu ôn hòa, 4 mùa không sương tuyết, hoa cỏ đua chen, nên có tên Bách Hoa. Trong khoảng niên hiệu Hồng Võ (1368-1398) từng triều cống phương vật gồm nhiều chim thú hiếm.
13/- Tam Phất Tề: từ niên hiệu Hồng Võ, được Chu Nguyên Chương hạ chiếu khuyến dụ, vua Tam Phất Tề bắt đầu dâng phương vật triều cống, đặc biệt giai đoạn Trịnh Hòa há Tây dương lại càng tận tụy, nhưng sau đó thưa dần.
14/- Bột Nê: năm 1370, Chu Nguyên Chương sai Trương Kính Chi và Trương Trật đi sứ Bột Nê. Khi hai người này về, quốc vương Bột Nê là Magemosha tháp tùng sứ đoàn đến chầu, dâng nhiều sản vật quý hiếm. Khi Trịnh Hòa há tây dương, vua Bột Nê lại đích thân đến dâng cống, không may lâm bệnh và mất, an táng ở Trung Hoa. Từ niên hiệu Vạn Lịch (1573-1620) thì không triều cống nữa, nhưng thương nhân hai bên vẫn qua lại mật thiết.
* * *
Với chư di, Minh đều dùng lễ thu phục, trong số đó, An Nam (Bắc Việt) là phiên thuộc trung thành, gần gũi nhất, thường xuyên triều cống. Vậy cớ gì đến nỗi Chu Đệ phải nghịch lại tổ huấn, không những chỉ dấy binh chinh phạt mà còn sáp nhập An Nam thành một quận của Đại Minh suốt 20 năm, khiến binh đao dấy động liên miên, gánh thêm nhiều phiền toái?
Oan có đầu, nợ có chủ, việc ấy sẽ bàn sau; entry này chỉ là để giới thiệu, trợ hứng và câu vìu cho loạt bài sẽ gõ về chủ đề 20 năm thuộc Minh đó, lêu lêu!
Cuối cùng, xin phân định rõ: 20 năm thành quận Giao Chỉ đó là kiếp nạn mà An Nam tức Bắc Việt tự gánh riêng, vốn dĩ chả liên quan đến Chiêm Thành và Chân Lạp (là Trung và Nam phần Việt Nam hiện nay); trang sử Trung-Nam phần phát triển và tiếp nối theo chiều hướng khác, không hề có thâm thù đại hận nào với nhà Minh. Những câu kết, oan nghiệt chất chồng giữa An Nam với Trung Hoa đã bị đánh tráo theo đúng truyền thống tốt vơ xấu lơ của bọn sử gia Bắc Việt, chúng đã sáp nhập, đồng hóa và đánh tráo lịch sử thẻo đất Bắc Việt thành lịch sử toàn quốc. Thừa hưởng sự gian lận đó, lịch sử Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này cũng dần thành lịch sử cả nước, dù chẳng hề liên quan nhau.
_______
[1] Đời Minh chia quân đội thành các vệ, sở. Mỗi Bách hộ sở có 112 người, cứ 10 Bách hộ sở thành một Thiên hộ sở, 5 Thiên hộ sở thành một Vệ. Cả nước có hơn 2.500 vệ, tức hơn 14 triệu quân lính. Năm 1406, Minh Thành tổ Chu Đệ phái 5.000 quân (tức chưa đầy một vệ) hộ tống Trần Thiêm Bình về Đại Ngu đối chất với nhà Hồ, được sử gia Bắc Việt cho là đội quân xâm lược. “Xâm lược” chỉ với không tới một vệ quân?
[2] Toàn văn xem ở: https://zh.wikisource.org/zh-hant/皇明祖訓
[3] Đời Minh Thành tổ Chu Đệ, vào 1403, lại mở thêm 2 Thị bạc ty Thái Thương (nay là thành phố Thái Thương tỉnh Giang Tô) và Vân Nam, An Nam được giao thương mậu dịch với Trung Hoa qua Thị bạc ty Vân Nam này.
[4] Hoàng Minh tổ huấn – Thủ chương).
Xin hỏi bài tiếp của bài này đâu thưa bác?
bẻ lái sự thật, thế nào là tự thổi phồng nước mình, khỏa lấp sự thật?