Trong khi Bộ Ngoại giao ta nói về nhận thức chung giữa Việt Nam và Trung Quốc thì trên tờ Quân Tình Quan Sát, một chuyên san quân sự của Trung cộng, ngày 05 tháng 7 năm 2011, đã đăng bài báo nhan đề: Sáu trận chiến Trung Quốc không thể tránh né trong 50 năm tới của tác giả Tiểu Lý:
“Trung Quốc là một quốc gia tuy lớn mà không thống nhất, đó là sự sỉ nhục của dòng dõi Hoa Hạ, nỗi xấu hổ của con cháu Viêm Hoàng. Vì sự thống nhất của đất nước và sự tôn nghiêm của dân tộc, trong 50 năm tới, Trung Quốc nhất định phải tiến hành sáu cuộc chiến tranh; có thể là chiến tranh lớn cả nước, có thể là cuộc chiến cục bộ, nhưng đều là những cuộc chiến mà Trung Quốc bắt buộc phải tiến hành”.
Sáu trận chiến đó là:
1. Thống nhất Đài Loan (từ năm 2020 đến năm 2025).
2. Thu hồi các đảo Nam Hải (2025 – 2030).
3. Thu hồi miền Nam Tây Tạng (2035 – 2040).
4. Thu hồi quần đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu (2040 – 2045).
5. Thống nhất Ngoại Mông (2045 – 2050).
6. Thu hồi các vùng lãnh thổ bị Nga chiếm đóng (2055 – 2060).
Gớm, bác Tiểu Lý này không biết võ nghệ có cao cường cỡ Lý Thám Hoa trong Tiểu Lý Phi Đao không mà đòi chiến lung tung cả Nga, Nhật, hihi! Ở đây, chỉ xin trích dịch “cuộc chiến thứ hai” để bà con thấy tình hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa thắm thiết dường nào đối với nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Thu hồi các đảo Nam Hải (từ năm 2025 đến năm 2030)
(…) Sau khi thống nhất Đài Loan, muộn nhất là trong vòng hai năm, Trung Quốc sẽ ra tuyên bố cho các nước xung quanh Nam Hải (tức Biển Đông) là Trung Quốc sẽ dùng vũ lực thu hồi các đảo ở vùng biển này. Kỳ hạn sau cùng là năm 2028, các quốc gia này có thể đàm phán với Trung Quốc để giao trả các đảo họ đã chiếm giữ. Trung Quốc vốn lấy tinh thần láng giềng tốt đẹp hữu nghị và phong cách một đại quốc làm tiền đề, có thể đảm bảo cho lợi ích kinh tế mà các nước đã đầu tư; bằng ngược lại, một khi Trung Quốc sử dụng vũ lực để thu hồi thì việc đầu tư kinh tế của các quốc gia xung quanh Nam Hải sẽ bị Trung Quốc tịch thu.
Lúc này, có thể là các nước xung quanh Nam Hải sẽ sợ hãi vì Trung Quốc đã dùng vũ lực thống nhất Đài Loan. Tuy nhiên, dù một mặt họ phải ngồi vào bàn đàm phán với Trung Quốc, nhưng mặt khác cũng không dễ buông bỏ lợi ích trong tay; vì vậy họ sẽ trì hoãn, để chờ xem những động thái rốt ráo của Trung Quốc rồi mới quyết định nên lựa chọn chiến tranh hay giao trả.
Khi ấy Mỹ sẽ không cam tâm để Trung Quốc thu hồi các hải đảo ở Nam Hải, bởi vì trong cuộc chiến đầu tiên (đã nói ở trên), nước Mỹ hoặc là không kịp tham dự, hoặc là dù tham chiến nhưng vẫn không thể ngăn chặn Trung Quốc thống nhất Đài Loan. Do đã biết thực lực của Trung Quốc, Hoa Kỳ sẽ không dám công khai ra mặt đối địch, nhưng nhất định sẽ bí mật hỗ trợ các nước xung quanh Nam Hải như Việt Nam và Philippines; và cũng chỉ có Việt Nam và Philippines là có thể dám thách thức Trung Quốc, nhưng (hai nước này) cũng sẽ cân nhắc cẩn thận, không dám dễ dàng động võ với Trung Quốc, mà chỉ khi nào trong đàm phán với Trung Quốc mà không thể thu lợi ích gì, đồng thời lại được sự giúp đỡ quân sự của Mỹ mới dám mở cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Tại thời điểm này, lựa chọn tốt nhất của Trung Quốc là tấn công Việt Nam, bởi vì Việt Nam là đất nước lớn nhất và mạnh nhất ở vùng biển Nam Hải. Trong cuộc tấn công của Trung Quốc, các nước xung quanh Nam Hải sẽ không dám giúp đỡ Việt Nam mà chỉ đứng ngoài quan sát. Tấn công Việt Nam là để “giết khỉ dọa gà”, nếu Việt Nam bại thì các nước này sẽ phải mang các đảo họ đã xâm chiếm giao trả cho Trung Quốc; Trung Quốc bại thì họ sẽ sẵn sàng đánh nhau với Trung Quốc.
Tất nhiên, Trung Quốc nhất định sẽ đánh bại Việt Nam và thu hồi các đảo đã bị xâm chiếm. Khi Việt Nam bại trận, chẳng những họ phải giao trả các đảo đã chiếm đoạt, mà còn phải chịu thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, các nước vùng Nam Hải khi ấy một mặt khiếp oai Trung Quốc, mặt khác vì muốn giữ lại phần nào lợi ích, sẽ phải cân nhắc thiệt hơn để mà đàm phán, giao trả lại những hòn đảo mình đã chiếm đóng và thần phục Trung Quốc. Trung Quốc khi ấy chỉ cần sửa cảng đóng quân, trấn giữ Thái Bình Dương.
Chừng đó Trung Quốc đã đột phá chuỗi đảo đầu tiên, sẽ tiến quân và đột phá vào các chuỗi đảo thứ hai, tàu sân bay Trung Quốc sẽ thực sự được tự do rong ruỗi đại dương, và Trung Quốc sẽ càng mở rộng lợi ích cùng các mối quan tâm của mình.
Hết trích, miễn bàn, khà khà! Tiện đây xin giới thiệu một bài phú đặc sắc của Nguyễn Đôn Phục (sống khoảng cuối thế kỷ 19) nói về tình bằng hữu. Bài phú này là một “tập đại thành” các phương ngôn tục ngữ rất thú vị.
_______________
Bằng hữu kim ký phú
Người trong trời đất; Học dõi thánh hiền.
Sang hèn đã có mấy thiên; Thương ghét mặc dầu tình thế.
Cha nói ngang quan nói hiếp, hiếp ngang phận phải chịu lòn; Cú rằng có vọ rằng không, không có đôi mỏ đôi chối.
Đất đã đắp đắp cho nên núi, chín chầy phải gắng công lao; Đường dầu đi đi dốc tới nơi, ngàn dặm chi nài lao khổ.
Tuy gần mực thì đen gần đèn thì tỏ; Song có thân phải dốc có vóc phải toan.
Đừng quen người gậy múa vườn hoang; Mà học kẻ trống qua nhà sấm.
Tài trí xem còn thấy chậm, hát xay lúa múa lại tắt đèn; Phận duyên ơi hỡi biết hèn, khóc hổ ngươi cười ra nước mắt.
Song mà khi này còn khi khác, mía sâu có đốt nhà dột có nơi; Muốn cho lòng đó tỏ lòng đây, chuông đánh mới kêu đèn khêu mới sáng.
Mựa chớ đem lòng đen bạc; Khá tua giữ dạ sắt đinh.
Một con sâu khuấy rầu nồi canh, lầm lỡ đó đà thấy vậy; Ba mươi cái răng đóng trăng cái lưỡi, hèn gì này phải lo âu.
Miễn là mất lòng trước mà được lòng sau; Khi một miệng kín mà chín miệng hở.
Cũng mong hiệp một nhà Tần Sở, thần cậy đa đa cậy thần; Dễ muốn phân hai ngả Sâm Thương, Phật giả ni ni giả Phật.
Khôn thì sống mống thì chết, lời kia tục những thường rằng; Đầu trở xuống cuống trở lên, lẽ ấy ai mà chẳng thấu.
Thương nên tốt ghét đà nên xấu; Lành đồn gần dữ lại đồn xa.
Gẫm cũng phường con ông cháu cha; Phải chi nhà thuyền mượn lái mướn.
Người hiền xem tướng, rậm mày thì ắt cả lông; Đầy tớ kể công, cao ngày lại thêm dày kén.
Khó nhìn lời côi nhìn lẻ, chẳng nói – nói thì thương; Giàu đổi bạn sang đổi hầu, không phô – phô hóa ghét.
Đời còn biết so hơn tính thiệt; Đây bao nài kể việc xưa sau.
Đừng lo mụ vãi trọc đầu; Chớ sợ con đò khát nước.
Trách là trách cưu giành ô thước; Hiềm vì hiềm gởi bạ nhành dâu.
Lươn đã cả kiếp lấm đầu; Gà lại một nhà bôi mặt.
Vì con heo phải đèo khúc chuối, công phu đã chẳng so đo; Liều nắm cải vãi vườn dâu, ngày khắc họa nên cây trái.
Nghĩ nào sợ chết thiêu cháy dái; Hơi đâu lo làm đĩ thủng đồ.
Thà khi đầy tớ người khôn; Hơn lúc quân sư đứa dại.
Bụng làm dạ chịu, có gian thì có ngoan; Mũi dại lái mang, làm lớn ai cho làm láo.
Bến trong thì nhờ bến nhơ thì chịu; Nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong.
Ăn cơm mới nói chuyện cũ; Kẻ thiếu việc người dư công.
Vì muốn cho bán thịt mua lòng; Dễ tránh lúc đau chân há miệng.
Kiến ăn cá cá rồi ăn kiến, mựa đừng ỷ thế ỷ thần; Rồng lộn rắn rắn lại lộn rồng, khuyên chớ rằng khôn rằng giỏi.
Cháo nấu dầu lòng suy nghĩ, đỗ cua thua thú đỗ mèo; Cơm no lo việc đèo bòng, giờ mẹo trèo qua giờ tý.
Kìa cao lớn đã từng mấy nổi, khiến người thù để ba năm; Nọ rộng dài ước có bao lăm, xui kẻ lời phò tám sải.
Mười hai bến dạ dầu dốc trải, bao nài lái mũi một đôi; Băm sáu nghề lòng nó muốn vui, phải gắng ngày ba đêm bảy.
Song còn nghĩ:
Rừng cao công gáy, em chị có ngàn; Đồng rộng gió luồn, vui buồn nhiều nỗi.
Một mặt hơn mười gói, nói là nói cho kêu; Người sống bằng đống vàng, vì chăng có vì chỗ.
Ai cho nói vãi lại nói vơ; Hễ muốn ăn phải lăn vô bếp.
Nơi sao ăn chẳng hết, nơi sao thết chẳng khắp; Nói với khôn không lại, nói với dại không cùng.
Đừng hung hăng như trâu húc nhà thần; Mà lật đật như ma trật đám quải.
Suy đi nghĩ lại cơm mắm thấm lâu; Nhắm trước nhắm sau, bến hiên thuyền đậu.
Dạ giữ dạ mựa đừng sợ lậu, nhà có vách ngạch có tai; Lòng dặn lòng đâu dám đơn sai, ăn coi nồi ngồi coi hướng.
Chớ thấy của đời mơ tưởng, con trê cũng tiếc con diếc cũng ham; Đừng cho miệng thế thị phi, bánh sáp trao đi bánh chì trao lại.
Trách mấy kẻ nhiều lời phải trái, nước lã khuấy nên hồ; Ghét thay người học thói hàm hồ, bát ngô xô chẳng chết.
Bới lông tìm vết thế gian lắm chuyện sâu cay; Đãi cát tìm vàng thiên hạ mấy người xởi lởi?
Đừng quen trục lợi tham ván bán thuyền; Phải nghĩ thân duyên liệu cơm gắp mắm.
Lịch sự đủ điều lịch sự, l. để lỗ đeo hoa; Đàn bà ba thứ đàn bà, mặt nào ngao dường ấy.
Tai nghe mắt thấy, chớ như ốc nọ mượn hồn; Ăn chắc mặc bền, mựa học mua trâu vẽ bóng.
Vì nhiều sãi cửa chùa không ai đóng; Thà ít thầy mà đãy lại đầy thêm.
Dẫu khoe cả vú lấp miệng em cả hèm lấp miệng hũ; Song cũng làm thầy đất ta làm ma đất người.
Trải qua nhiều sự nực cười; Gẫm lại nhiều đường thắm thiết.
Cảm là cảm gà nuôi con vịt, chít chiu nào kẻ nâng niu; Thương những thương cá bỏ giỏ cua, hiếp đáp nhiều bề tủi hổ.
Dễ chẳng muốn lời kia cặn kẽ, nóng súng súng nổ, đau gỗ gỗ kêu; Song chi bằng lẽ nọ êm đềm, cơm mình ăn ngon, con mình dễ khiến.
Hầu mong cả tiếng, làm dâu nhà cả thế làm rể nhà nhiều con; Lại sự vô duyên, bằng lông quăng chẳng đi bằng chì quăng xa lắc.
Rượu chẳng say chè say quá mức; Môn không ngứa ráy ngứa nỗi gì?
Nói ra là sự vân vi, ấu sao tròn mà bồ hòn sao méo? Thiệt vậy chớ phòng khi dễ, lành làm thúng mà lủng cũng làm mê.
Bảy mươi chưa què chớ khoe rằng trọn, cầm dấu sao khỏi dính tay, trách chi những lễ; Ba mươi đời đĩ bợm thì mắc điếm thầy, rót nước phải toan chừa cặn, miễn đặng xíu tình.
Sao cho lèo lái phân minh, giỏ có quai chài có chóp; Chớ để cá tôm lộn xộn, quân vô tướng hổ vô đầu.
Dám đâu cử cá hành câu; Mà lại tham mùi chè gắp.
Nhiều ít cũng là ơn nghĩa, miếng khi đói bằng gói khi no; Thiệt hơn chớ khá so đo, một đời ta ba mươi đời nó.
Chớ ăn đằng sóng mà nói đằng gió; Hễ một câu nhịn là chín câu lành.
Chẳng qua vì nghĩa vì tình; Nào phải rằng vinh rằng nhục.
Đắng mà ruột thịt, chẳng chọc – chọc đau lòng; Ngọt cũng người dưng, dầu thương – thương giúp miệng.
Lẽ dời đổi nay sông mai biển, khiến quên nơi bến đò xưa; Chốn nương nhờ cội cả bóng cao, xin đừng phụ nơi cây đa cũ.
Ăn chưa no lo chưa tới, để đèo bòng cóc nọ leo thang; học còn ít chí còn hèn, dám mong mỏi voi kia đẻ trứng.
Miễn có đức không sức mà ăn; Bằng chẳng lo của kho cũng hết.
Phận mình tự biết, ăn đằng hôm phải lo đằng mai; Duyên ai nấy nhờ, tắm khi nào vuốt mặt khi ấy.
Tuy mừng cá gặp buổi chợ; Phòng khi trâu trắng mất mùa.
Biết đâu cao thấp nấm mồ, trao duyên gởi phận; Ta cũng bắt buồm coi gió, cầm lái dõi sông.
Dễ khoe khoang vợ cậy thế chồng; Cũng may mắn con nhờ đức mẹ.
Liệu lời liệu lẽ sao cho phải phải phân phân; Dầu đặng dầu chăng cũng mặc không không có có.
Bởi vì cơm chúa nên múa tối ngày; Chớ thấy ăn khoai vác mai chạy quấy.
Sao cho có chí, sắt mài rồi cũng nên kim; Chớ có lưu tâm, sành rán muốn cho ra mỡ.
Dầu mà không mợ thì chợ cũng đông; E khi có chồng như gông vào cổ.
Đừng khinh dại ngộ, cha nó lú còn chú nó khôn; Phải nghĩ nguồn cơn, mẹ tốt sữa nên con mới mập.
Chớ dớn dác cái cù cái đập; Mà dựa hơi lũ cá lòng tong.
Nhảy đồng bởi nước sông; Có gió nên rung mõ.
Trách đòn gánh nọ, công trau rồi lại đè vai; Sợ lũ gà kia, vắng chủ đã toan bươi bếp.
Nói sao cho hết tình đời ai dại ai khôn; Kể thử mà nghe lời thế nào thanh nào tục.
Ai chưa nhắm mắt về mười đất chín trời; Thì phải cắn răng với năm cha ba mẹ…
Đọc bài viết một lần ,thấy xuôi tai,mô tê nỏ hiểu
Coi bức hình một lượt,nhìn lạ mắt,răng rứa nỏ rành.
He he… :
“Văn chương Phú lục đã xong rồi
Thừa giấy làm chi chẳng…chớp voi”
(Luận bài ni có lẽ phải bác Trà,còn bình bức hình,không ai hơn anh Vuidua , nếu không thì nhờ Thang mo vậy.)
Hê, em nhè húng ngay giữa đêm giờ tý nên bắn bài lên thui mờ. Chúc bác vui cuối tuần!
Hôm nay mới đọc bài này, thấy sức tưởng tượng của cái anh Tiểu Lý nào đó còn hơn cả nàh văn Jule Verne của Pháp.
Còn bác Chốt muốn có một lời bình về bức hình thì Vui thử xem sao:
Voi, lừa giao cấu chuyện lạ chưa?
Lạ mà có đấy, tích chẳng xưa
Chuyện ở đâu ta? Chuyện nước Mỹ
Diễn hề chính trị, đảng Voi, Lừa.
Hoặc:
Ăn thì mỗi đứa một mâm
Nhưng mà muốn sướng phải ‘nằm’ với nhau
Hoặc : Chính trị đấu đầu, giao cấu hồn nhiên!?!?!
Hi, em biết thế nào bác Vui Đùa cũng nhận ra đấy là ảnh châm biếm 2 cái đảng lừa đú voi đởn bên Mẽo mờ!
“… làm lớn ai cho làm láo.” : ơ, thế Nguyễn Đôn Phục (sống khoảng cuối thế kỷ 19) là nhà tiên tri à bác?
Không phải sáng tác của ông ni.Ông chỉ “biên tập” tất cả những câu tục ngữ hay thành ngữ;xếp răng đó cho có lớp có lang,theo bằng trắc, vần điệu…
Khen anh Lý giỏi sưu tầm!Đúng là lần đầu Chốt mới biết đến cái tên “Nguyễn Đôn Phục” và bài của ổng.
Để “biên tập” được thành 1 bài phú lớp lang mạch lạc và cuốn hút như vậy cần phải có cả bồ chữ nôm trong bụng đó ông anh ui! Hihi!
NĐP chỉ là một nhà nho bình thường thôi hè Phay Van! Nên trách chăng là cái đứa bỗng khiến câu văn của ông… ứng nghiệm ấy, hihi!
Bài trích này quá rõ ràng chiến lược thôn tính của Trung quốc đối với biển đông . Sao Ly không trích Tagged (thẻ)của bài viết để mọi người dễ truy cập .
He he, chị Phương Lan ơi, hắn đánh giặc mồm đấy, đừng có lo đi. Khi Trung cộng to mồm là lúc hắn đang lo lắng; còn khi hắn im lìm như cá lềm kềm mới phải đáng bận tâm: có cơ hắn đang định đánh lén! Bài viết này như cái tát vào mặt bác gì Hồ he he Xuân Sơn nên em trích dịch chơi thui mừ! 😛
Em dốt đặc, chị Phương Lan bày em làm thẻ đi!
Khi viết bài ở ở phía bên phải trang có mục “thêm chuyên mục” , phía dưới mục này là Post tags ( hoặc thêm thẻ ) , nó đó 😀
Giờ đang khuya quá, để mai em sẽ mò thử coi, hi hi! Cảm ơn bà chị diễm kiều nhiều nhiều! 😀
Sợ “anh bạn” láng giềng ni quá
Bác Nguyễn Văn Tuấn nói thẳng: “nhà cầm quyền Trung Quốc trơ trẽn”, Ly thích cái hình dung từ ấy đấy cô, he he!
HL nghĩ lịch sự nhưng mà phải thẳng thắn chứ như mấy eng chị nhà mình thì chán lắm ( anh S, chị N). đồng ý là họ chỉ là phát ngôn viên thôi nhưng mà ..thiệt tình là thất vọng quá, người dân bị chính người đại diện cho mình …”dìm hàng” …chứ không phải ai khác!
Bắt quả tang cô giáo đang… dìm hàng chị N với anh S, hihi!
Một bài tuyệt vời qúa
Dùng phương ngôn tục ngữ thật kinh, chị Hà Bắc hè!
Thu phục Biển Đông đương nhiên là chiến lược lâu dài của Trung cộng rồi, vấn đề ở thời gian thôi. Điều quan trọng ở các nước trong khu vực là phải đoàn kết lại, người ta bảo hai đánh một không chột cũng què mà.
Anh đi mà bảo thế với các bác nhà ta đi anh Mô! Ôi giời, sao lại có thứ chơi trò bắt mắt bắt dê ngay bên hố ấy nhở… Mà thôi, em không nói nữa là không nói nữa, hehe
Viết bài này tôi nhớ giai thoại về người phiên dịch của Lê Duẩn (bạn nào rõ hơn xin comment bên dưới cho bà con tham khảo). Khi diện kiến một quan chóp bu của Trung Quốc tại Bắc Kinh trước cuộc chiến tranh 1979, hai bên có bàn về Hoàng Sa và Trường Sa. Vị quan chức Trung Quốc nói rằng, hai đảo đó có xương của người Hoa cổ nên phần đất đó thuộc về nước họ. Vị phiên dịch của ta đốp lại “Nếu thế thì ở đất Việt Nam chỗ nào chả có đầu lâu người Trung Quốc”.
————
Anh Ly chộ người phiên dịch Việt Nam ta có oách xà loạch không? nếu các nhà ngoại dao ta ai cũng có khẩu khí thế này có phải mừng vui không!
Vụ này Ly cũng có nghe đâu đó, dám nói được với Tô Văn Định vậy cũng là tay cừ; còn giờ hình như người ta chỉ có miệng ăn chứ không có miệng nói, he he!
Bá Kiến đã đúc kết “lấy đầu bò trị đầu bò”. Đối xử với kẻ tàn bạo thì phải tàn bạo hơn. Bài học này thì Trung quốc đã thấm rồi.
Nhớ lại ngày 14 tháng 5 năm 1998 thật đau lòng, nhưng có thể nó lại tái diễn khi Trung quốc dám động đến biển đảo của người Indonesia hung hãn không cam chịu.
Các bạn xem lại vài hình ảnh này:
http://vn.360plus.yahoo.com/chigiengchodoimatem86/article?mid=403
Đòn trá ngụy của bọn Trung cộng để kích động Hoa kiều căm thù dân Indonesia đó bác Chổi ơi. Dạo đó lão sếp em có đầu tư ở bển, giờ vẫn còn, lão bảo không có chuyện đó, chỉ là thổi phồng quá đáng thôi!
Chi chi chành chành
cái đanh thồi lửa
Con ngựa chết trương
Tam vương , ngũ đế
Bắt dề đi tìm
Ù à, ù ập
Ngồi sập xuống đây
…
Đó là câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm.
Chi chi chành chành là câu mào đầu nói về thời thế xoay vần có chi có chành…
cái đanh thổi lửa – khiếp thật , thuở ấy mà cụ liệu như thần , cái đanh thổi lửa bây giờ là những quả tên lửa hành trình , ….
Con ngựa chết trương , câu này thì bố ai mà luận, con ngựa ? là năm con ngựa ? nhưng tại sao lại chết trương ? Cjhe61t trương là …. sao ? Đến đây thì chịu thua cụ Trạng. Cụ nói cứ như anhxtanh, càng đọc càng … loãng !
Nhưng câu sau thì ra liền : Tam vương ngũ đế = 8 đời vua cả thảy.Nếu tính từ năm Lí công Uẩn lên ngôi thì bây giờ nhẽ đã là 8 đời vua (?)
…
…
Bài sấ, này của lão Lí thật mông lung, cứ như ngồi nghe mấy thầy chùa đọc kinh, giáo huấn rộng mà hẹp. Vô tình mà hữu ý, khuyên bảo như phê bình,… …v.v…
Kết luận :
” …..Nói sao cho hết tình đời ai dại ai khôn; Kể thử mà nghe lời thế nào thanh nào tục.
Ai chưa nhắm mắt về mười đất chín trời; Thì phải cắn răng với năm cha ba mẹ… … “
Chỉ là những câu nói về cách thói cư xử ở đời thôi mà lão huynh, đừng có mà tin Phay Van, nường ấy “đá xoáy” vào góc hẹp đấy, he he!
Bác Lý chơi em nhá, hự!
Thôi mà, cho xin lỗi đi! Ngoan ngoan, đừng khóc đừng khóc, mình cưng mình cưng mờ… 😀
Bác Ly xạo quá đi. Bác mà nhìn thấy hình em là bác sợ chết khiếp.
Mầng vui quá sá mầng vui, nhớ nhá, Phay Van hứa tặng hình cho Ly rồi đấy nhớ!
Tiểu Lý ni chỉ là chức danh nhỏ trong ” bộ dọa ” của bọn Trung của thôi mừ . Thằng Tiểu Lý ni cho nó giao thiệp với Tiểu Tiện của bộ chửi là bằng vai phải lứa . Chỉ sợ trong vòng 10 năm nữa , TQ sẽ tự vỡ thành từng mảnh giống như gã khổng lồ đứng trên đôi chân đất sét . Thằng Tiểu Lý chỉ khoái đếm cua trong lỗ . Khà khà
Ngựa vía chồn chân đứng giữa đồng
Voi già hí hửng thúc đằng Đông
Hấp tấp Voi kia thời có nhớ
Ngựa buồn đá hậu dái còn không .
Bác Thangmo ơi! Em cũng chết cười với thằng Tiểu Lý lưu manh này: chẳng biết cái nhà gì nước Cộng gì hòa Nhân gì dân Trung Hoa kia có lê lết tồn tại nổi đến hết thập niên này hay không nữa mà cứ lăng xăng kế sách cho… 50 năm sau, he he!
Ngựa đâu mà có thứ ngựa chịu cho… voi dày như thế! Em xin thề trên cái… avatar của em, là con đó là con lừa, chỉ lừa nó mới thế chứ! 😛
Mình thích bài Phú và tấm hình!
Hình như ông NĐPhục là người vùng Bình Trị thì phải,vì có chữ “Côi” (Trên) trong bài. Và câu ” l. để lỗ đeo hoa” cũng hình như là:
Lịch sự đủ điều lịch sự, l..ở lổ mà cổ đeo hoa..( ở lổ : cởi truồng)
😆
Em bái phục Lưu huynh! Trong bài phú này có nhiều phương ngôn tục ngữ mà thú thực là em không hiểu hết nghĩa và cách dùng nữa đấy; khi nào rảnh nhờ huynh giảng thêm nghen. Lúc đọc đến câu “để lỗ đeo hoa”, em cứ phân vân, e khi hồi xửa xưa mình chép lại bị nhầm, hihi!