Két sắt trong nhà bị trộm mà gia chủ không hay biết đã là sự lạ; đến như ngân khố quốc gia bị vét sạch mà bậc quân chủ cũng bất tri mới càng hy hữu. Chuyện hoang đường đó thực đã từng xảy ra vào đời Thanh Tuyên tông.
Thanh Tuyên tông tức Ái Tân Giác La Mân Ninh, niên hiệu Đạo Quang, là hoàng đế đời thứ tám Đại Thanh quốc, kiêm cả đại hãn Mông Cổ và hoàng đế Tây Tạng. Trong 30 năm tại vị, Ninh lao tâm cần chính, một lòng vì nước vì dân đến mức ăn không ngon ngủ chẳng yên, xứng là bậc minh quân chân chủ hiếm hoi trong lịch sử. Hiềm nỗi ông sinh bất phùng thời, đầu thai làm vua nhằm đang khi chế độ hũ bại, quan lại bất tài, giặc ngoài lấn lướt, vận nước lung lay vô phương cứu vãn.
1/. Bối cảnh
Đó là thời điểm nền thịnh trị của Đại Thanh đã sang bên kia sườn dốc. Đạo Quang năm thứ 23 (1843), nội ưu ngoại hoạn dồn dập. Cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai với Anh quốc vừa mới kết thúc, tuy khói lửa tạm yên nhưng tình hình hai bên bờ biển Anh-Hoa vẫn còn sôi sùng sục, chẳng biết sẽ lại bùng nổ lúc nào.
Lúc này, mối lo đè nặng lên vai Mân Ninh là tình hình tài chính: Hai lần Chiến tranh Nha phiến liên tiếp đã khiến triều đình hao tổn đến 30 triệu lạng bạc trắng; chiến phí phải bồi thường cho Anh khoảng 20 triệu lạng; cùng lúc Hoàng hà lại vỡ đê, chi phí đắp đê, cứu hộ nạn dân ngốn thêm 20 triệu lạng. Năm đó, Đạo Quang 62 tuổi, đầu ông bạc trắng bởi nỗi lo về tiền.
Vỏn vẹn ba năm (1840-1843) mà tai họa liên miên, tổng cộng chiến phí, tiền bồi thường chiến tranh, tiền khắc phục thủy họa tất cả đã ngốn hơn 70 triệu lạng bạc, trong khi tổng thu nhập toàn quốc chỉ hơn 40 triệu lạng mỗi năm. Chuyện tiền của vốn oái oăm ngộ kỳ thời: bình thường nó cứ bập bềnh ỏng ẹo chẳng mấy khi đầy, tới cơn vận hạn lại ào ào như tháo cống, thiết tha tuôn chảy chẳng hẹn quay về. Mân Ninh đọc báo cáo mà sa nước mắt, ngân khố chỉ còn nhỉnh 10 triệu lạng bạc tồn kho mà thôi, đây là con số thấp nhất trong quốc khố kể từ khi Đại Thanh dựng nước. Ông quyết chí phải giữ lại số bạc này làm kim bản vị cho đế quốc. Nhưng hoàng đế làm sao ngờ được rằng, sự thực kho bạc đã trống rỗng, 10 triệu lẻ ít ỏi đó cũng chỉ là con số ảo mà thôi!
2/. Phát hiện
Ninh phát hiện được con voi là nhờ ở con ruồi bu theo đuôi. Đầu năm 1843, có tên họ Trương nọ bỏ tiền mua chức quan (lệ đời Thanh cho phép thường dân được quyên tiền mua phẩm hàm, gọi là lệ “quyên quan”). Chú ruột kẻ “quyên quan” này là một “Khố binh”, tên Trương Bảo Thành. Bạc quyên vụ này được nộp đến Hộ bộ, Thành phụ trách việc cân đong nhưng không cho bạc vào kho, lại ghi vào sổ sách rằng đã nhập. Do ăn chia không đều nên việc lộ ra, khắp kinh thành đều hay, và thấu đến tận tai vua.
Hay tin, Mân Ninh kinh hoàng, lệnh cho Thượng thư Hình bộ cấp tốc kiểm tra quốc khố, chừng đó mới phát hiện giữa thực tế tồn kho với chứng từ có khoản chênh lệch đến 9.252.000 lạng bạc; nói cách khác, khoản định kim hơn 10 triệu lạng đã tan như bọt sóng, quốc khố sạch không rồi.
Đạo Quang là vị hoàng đế “kỹ tính” nhất thế gian. Đại tướng trọng thần từ biên viễn về kinh dâng biểu tấu, tan buổi chầu đều phải tự lui ra, chớ từng có ai được vua đãi cho miếng cơm hớp nước nào. Vậy mà nay bỗng chốc hơn 9 triệu lạng bạc bốc hơi, nỗi đau này thật là xẻ thịt lột da, quá sức chịu đựng của ông vua keo kiệt. Thanh sử cảo ghi, ngày 25 tháng 4 năm 1843, vua thống hận đay nghiến quần thần: “Bỗng chốc lại thâm hụt 9.252.000 lạng bạc, quả là chuyện chưa từng thấy trên thế gian. Vận nước đang suy vi mà các ngươi lại thông đồng tác tệ, lòng lang dạ sói phản nước hại dân, thiệt là quá đáng! Bao nhiêu quan viên thân tín cột trụ triều đình, vậy mà tuyệt không một ai có lương tâm với trọng trách. Trẫm có mắt như mù, thật đã dùng lầm các ngươi rồi!” Đồng thời, Ninh hạ chỉ cho Hình bộ, Lại bộ, Binh bộ phải tận lực phối hợp điều tra cho ra đầu dây mối nhợ.
3/. Điều tra
Số lượng lớn quan viên và Khố binh bị bắt giữ, người của Hình bộ ráo riết thẩm vấn ngày đêm. Chuyên gia Hình bộ nhanh chóng đưa ra nhận định: thủ phạm chắc chắn phải là bọn khố binh phục vụ trong ngân khố.
9 triệu 250 ngàn lạng, muốn vận chuyển số bạc đó cần phải có 100 xe tải loại 4 tấn mới chở hết; dù chở đi được thì cất giấu vào đâu để che lấp tai mắt thế gian? Bài toán đưa ra hiểm hóc, mà tình nghi chỉ trút lên đầu những khố binh, là bọn trực tiếp tiếp xúc với bạc trong ngân khố.
Thành Bắc Kinh lúc bấy giờ có 10 kho lẫm, dùng để chứa quân lương, quân nhu, vải vóc, tôm khô nấm mèo các loại, trong đó có 3 kho chứa bạc:
Một là Nội khố trong Tử cấm thành, nơi đây cất giữ 1.200.000 lạng. Số bạc này là dành để khi nguy biến, hoàng đế phải lưu vong thì có mà dùng, cho đến lúc đó chưa đời vua nào phải mở Nội khố. Bạc ở đây là loại lớn, những 50 lạng một nén, nên không cần tra Nội khố.
Hai là Nội vụ phủ Ngân khố, tiếng là “ngân khố” nhưng kho này không chứa bạc mà chuyên cất giữ vàng ngọc châu báu. Diện tích kho nhỏ, việc quản lý gọn gàng kỹ lưỡng, nên cũng không phải thẩm tra.
Còn lại là Ngân khố do Hộ bộ quản lý, cũng chính là Quốc khố. Nơi đây chứa toàn bạc trắng loại thông dụng, hoạt động thu chi diễn ra hàng ngày, với bọn khố binh bưng vác vào ra không ngớt.
Ngân khố Thanh triều có qui chế an ninh bảo mật cực kỳ nghiêm ngặt. Trưởng khố phải là đại thần, do một viên Hộ bộ Thị lang đảm nhiệm; kế đó là 3 viên Lang trung, mỗi Lang trung lại có vài Khố thư giúp việc. Các quan chức nhân viên này cứ 3 năm lại phải thay người một lần, và tất cả những người này đều không ai được đặt chân vào khu vực chứa bạc; nơi đó chỉ bọn Khố binh mới được phép ra vào.
Khố binh được tuyển chọn từ người Mãn, lý lịch trong sạch, và cũng chỉ được phục dịch trong ngân khố 3 năm lại thay lớp khác. Hè cũng như đông, khố binh khi đến làm việc đều phải cởi hết áo quần để lại bên ngoài, sau đó lần lượt đến cửa kho xếp hàng nhận loại đồng phục đặc biệt. Tan ca, họ phải cởi bỏ đồng phục, trần truồng trèo lên một băng ghế cao, quỳ trên đó và thực hiện một nghi thức cổ quái: giơ hai lên khỏi đầu vỗ đánh bốp một tiếng, đồng thời dạng háng hóp bụng chổng mông mà hét lớn 3 lần: “Ra ngoài!”, sau đó mới được nhận lại áo quần để mặc vào và ra về. Những động tác đó tuy quái dị nhưng cốt để lộ lòng bàn tay, bàn chân, lộ họng, lộ nách, lộ háng, chứng minh rằng họ không giấu bạc chỗ nào trong người.
Xem đó thì thấy việc canh phòng Quốc khố cực kỳ nghiêm mật, tưởng không thể thất thoát được mẩu bạc vụn. Nhưng nghi vấn đặt ra là: thời hạn phục vụ ngắn ngủi, tiền lương thấp mỏng, lại chỉ được tính theo ngày công, mỗi khố binh chỉ trực ban ba lần mỗi tháng, mỗi lần kể một ngày công; đãi ngộ thì tệ bạc, nhân phẩm bị xem khinh, ngày hè thì không sao nhưng mùa đông giá rét phải phơi mình trần truồng là cả cực hình khổ ải. Vậy mà bọn chúng vẫn cứ ồ ạt đến xin đăng ký làm khố binh là bởi cớ gì?
Thì ra bên trong ẩn chứa huyền cơ, khố binh có nhiều cách trộm bạc khó lường, đây chỉ kê ra hai cách chính:
Cách thứ nhất gọi “Cốc đạo tàng ngân”. Cốc đạo còn gọi Hậu khiếu, tức bộ phận từ hậu môn vô tới ruột già. Người ta dùng mỡ lợn bọc thỏi bạc lại, nhét nó vô hậu môn. Cách này có thể giấu được mỗi lần chừng 30 đến 50 lạng bạc, trong khoảng 30 phút; nhưng phải khổ luyện công phu và tùy cơ địa “cốc đạo” của mỗi người, đã vậy mùa đông không khả thi vì mỡ lợn sẽ đóng băng, thành thứ vũ khí sát thương cực độc, không thể cho vào hậu môn được.
Cách thứ hai thông dụng hơn, là giấu trong thùng nước. Số là mỗi khố binh đều phải tự lo nước uống. Sáng sáng họ xách theo một thùng gỗ lớn đựng nước, thùng này được lắp ngăn bí mật dưới đáy, và bạc trộm được sẽ cho vào ngăn đó. Không chỉ trộm bạc nén, cả bạc vụn cũng được khố binh “thu gom”. Bạc bên ngoài nhập về Ngân khố thường không đạt chuẩn, do vậy phải tiến hành gia công dập lại theo đúng qui cách. Trong quá trình gia công, những vụn bạc rơi ra thay vì phải giao nộp thượng cấp thì bọn khố binh ém lại, trút vô đáy thùng đựng nước. Mỗi chiều ra về, khố binh chỉ cần lật úp thùng, trút sạch nước ra trước mặt lính canh là được cho qua.
Tính bình quân, một khố binh mỗi tháng rút rỉa ngân khố được 600 lạng bạc. Nhà Thanh giữ y lệ lương bổng của nhà Minh, quan nhất phẩm cũng chỉ được 150 lạng một năm; tức là thu nhập hàng tháng của mỗi khố binh bằng 4 năm niên bổng của một thượng thư đầu triều!
4/. HẠ MÀN
Điều tra ra đáp án, thì vấn đề nan giải lại nảy ra: việc thất thoát hơn 9 triệu lạng bạc không phải chỉ trong một ngày một bữa mà phải kéo dài nhiều năm, và không thể chỉ do một vài cá nhân thực hiện, mà phải là sự phối hợp của toàn bộ viên chức, và không chỉ mỗi Hộ bộ là có liên quan.
Thanh triều có qui định: mỗi năm đều phải tiến hành đại kiểm toán để thanh tra đối chiếu triệt để Ngân khố. Nhưng lần đại kiểm toán gần nhất lại cách đó những 43 năm, từ năm Gia Khánh thứ 5 (1800) trở về sau, hàng năm người ta chỉ kiểm tra sơ sài, các vị đại thần đến, lật lật sổ, nghiêng nghiêng đầu ngó qua nơi chứa bạc, hỏi han người này đứa nọ vài câu, vậy là xong một đợt thanh tra.
Cho nên vụ đại án này là vũng nước rất sâu, trong đó cả hắc bạch lưỡng đạo đều he he có nhúng vào ăn ké. Món lợi quá lớn mà lại dễ ăn, hỏi ai nỡ cầm lòng cho đặng?
Chuyện vỡ lở ra, những ai trong hơn 40 năm qua từng làm khố binh đều nhanh chóng bảo nhau đào tẩu. Mân Ninh nổi giận ban nghiêm lịnh cho các thống lĩnh thân quân phải tróc nã chúng, dẫn về hỏi tội. Đa số khố binh đều bị bắt giữ, nhưng số lượng phạm nhân đông đảo, thời gian gây án lại trải dài mấy mươi năm, làm sao thu thập chứng cứ cụ thể để mà xét xử? Đây là cả một tập thể đám đông phạm tội, dính líu đến cả quan chức cao cấp nhà nước, phải xử trí sao đây? Đấng làm vua thiệt là đau đầu, e lúc này Ninh cảm thấy khó chịu còn hơn cả Ngộ Không lúc bị niệm chú cẩn cô.
Có năm bảy vụ lẻ tẻ được khui ra với chứng cớ rõ ràng, vài khố binh bị chặt đầu hoặc lưu đày tống giam, còn thì không cách nào làm cho gạo ra gạo, thóc ra thóc đặng.
Ngày 6 tháng 5 năm 1843, Đạo Quang hạ chỉ: tất cả các quan viên có lai lịch từng dính líu đến việc phụ trách chức việc trong Kho bạc Nhà nước, tính từ 43 năm trước đổ lại, đều phải chịu trách nhiệm bồi hoàn cho Ngân khố. Cụ thể: trưởng khố quan, khố ngự sử phải đền 1.200 lạng bạc/ tháng, mức giá này nhân lên theo nhiệm kỳ viên quan đó phụ trách chức vụ liên quan. Đại thần quản khố phải đền 500 lạng/ tháng. Thanh tra kiểm khố đại thần thì phải bù 6.000 lạng cho mỗi đợt kiểm toán. Quan viên nào đã mệnh một thì được bớt nửa giá, và con cháu y có trách nhiệm phải gánh vác thay phụ huynh. Trong thời gian nhất định, nếu không đền bù đủ số thì đương sự phải bị tống giam và chịu tội hình sự.
5/. KẾT QUẢ
Số tiền phải bồi thường cho “tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” quá lớn, mà cơ chế nhà nước lại bất lực, không đủ hiệu năng thực thi kỷ cương, nên bọn cán bộ đại thần lớp thì lãng tránh, lớp thì kỳ kèo trả giá, lớp kéo dài thời gian để lâu cứt trâu hóa bùn. Mân Ninh thành ra thúi hẻo, vô kế khả thi.
Một vụ án tày trời, 9.250.000 lạng bạc không cánh mà bay, khiến ngân khố rỗng không sức nước kiệt quệ, vậy mà thánh thượng phải bó tay, những kẻ phạm án hầu hết nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Thanh triều quốc khố đại kỳ án vậy là chìm khuất theo thời gian, vĩnh viễn không tìm được thủ phạm.
Đạo Quang suốt hai mấy năm dốc sức ra công vực dậy uy thế Đại Thanh, nhưng hai lần chiến bại trước đế quốc Anh, lại thêm một mũi giáo này bởi bọn bề tôi thân tín đâm cho suốt ngực, hùng tâm tráng chí của Ninh hoàn toàn tiêu ma, ông đành bất lực nhìn vương triều Thanh chìm dần xuống hố.
* * *
Nếu ngày nào đó bạn giật mình nhận ra ngân khố nước mình bỗng dưng cạn kiệt rỗng không, lại tìm không ra thủ phạm, thì hãy nhớ cho, rằng bạn đang được chứng kiến sự kiện cực kỳ hiếm gặp trong đời người, và xin chúc mừng: Đất nước của bạn sắp tiêu rồi, à ha!
Bình luận về bài viết này